Thursday, June 21, 2012

CÁNH CHIM VƯỚNG BÃO

Đặng Châu Long
Nguyên Tiêu Tân Mão


Gian nan cuộc sống làm nhiều khi tôi như kẻ dại khờ, chẳng buồn nói, chẳng buồn bon chen với đời. Cứ nhủ lòng gói ém dĩ vãng buồn đau vào tận đáy lòng để những lúc vô vọng cùng cực tâm sự với giòng kỷ niệm không thể nhạt nhòa này.

         Mãi đến khi tôi được đọc hai bài viết của những người con Tuy Hòa viết về Nguyễn Hữu Ninh, tim tôi nhói lại, nghe chừng như vừa bị đâm vỡ khối ký ức chôn chặt lâu nay. Nhớ Ninh quá, nhớ bạn bè quá nên chẳng cầm được lòng, gởi gắm đôi giòng nhớ về một thời vừa khó khổ, vừa đầy ắp nghĩa tình.

          Chúng tôi, bảy anh em theo thứ tự lớn nhỏ: Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn văn Lai, Nguyễn Thiện Tường, Nguyễn Hữu Ninh, Đặng Châu Long, Ngô Ngọc Út, Nguyễn Đình Chiến gặp gỡ và thân thiết với nhau trong không gian chật hẹp A30  từ năm 1979,80.  Không chung đội, nhưng mỗi chiều, chúng tôi lại cùng quay quần trên góc nhà, bên lon guigoz trà nấu vội, tâm sự trò chuyện cho qua thời gian vô định đó.

          Chúng tôi gọi Ninh bằng biệt danh Anh Tư Đồ, vì Ninh thứ tư trong nhóm và bộ dạng thì như anh….Trương Chi : Đen đúa, mắt hom hem vì bị hư một mắt trong chiến tranh, giọng nói rề rà như cụ đồ, Ninh cũng lại từng theo học Hán Nôm ở Đại Học Văn Khoa.
          Năm 1981, ngoại trừ Chiến bên đội Xây, Út bên Cấp Dưỡng, số còn lại đều ở đội Củi, chuyên chặt củi cho Cấp dưỡng trại. Chúng tôi hàng đêm về ngủ ở Sơn Thành, trong khu kinh tế mới của dân Phường 6 Tuy Hòa, sáng lại ra núi Mái nhà đốn cây, ra củi.
          Nhóm chúng tôi thường để Ninh làm gì thì làm, vì Ninh yếu thể chất và cũng vì quí trọng một người bạn tài hoa trong âm nhạc. Trưa ngủ trong rừng, chúng tôi có một giang sơn riêng và đó là thời gian êm đềm nhất của chúng tôi. Ngày nào bẫy được sóc, chim, chuột thì bữa ăn rôm rã hơn, còn không cũng…chẳng sao.

          Trưa nằm đong đưa trên võng, mỗi khi nghe tiếng hát Ninh cất lên chúng tôi đều im lặng, lắng lòng chừng như được đón một luồng gió nhỏ hiếm hoi trong không gian oi bức này. Ninh thường hát những bài ca do Ninh sáng tác trong thời gian đó, hoặc những bài trong liên khúc học trò,Giao thừa khúc, Mừng năm Mới của Phan Ni Tấn, khi thì Nguyệt ca, Hoa ngõ Hạnh…. Bao giờ cũng vậy, khi Ninh hát hình như Ninh sống trong một thế giới khác, mắt lim dim như vào chốn vô thường. Mà sao lạ, giọng thổ khàn nhựa của Ninh như chất chứa hết những khổ đau của cuộc đời, phả ra tiếng kêu đau thương làm mọi người phải bồi hồi như nghe tiếng lòng của chính mình. Chỉ lúc nào vui lắm, Ninh mới hát bài Trách Phận. Có lẽ trong lòng Ninh bấy giờ không còn muốn trách phận nữa rồi.

           Ninh viết nhạc cũng nhanh, miễn là có hứng thú và không gian yên tĩnh là được.Nhớ lại vào cuối năm 1980, khi còn ở Đội 5, vào Giáng sinh, Ninh vừa cuốc đất bên tôi, vừa hát đi hát lại bài Noel Noel của Ninh vừa sáng tác, sau đó, cả đội đều thuộc và hát được bài này.  Khi tôi đọc về nghi án bài Trách phận, tôi cảm thấy ngạc nhiên vì Ninh dư sức ký âm bài ca mình, đâu cần nhờ đến người thứ hai, để bây giờ lên youtube chỉ thấy tác giả là người khác, hoàn toàn chẳng có tên Ninh. Gia tài âm nhạc của Ninh nào phải một bài đó mà hàng mấy mươi bài. Nhưng xem khía cạnh bản tính của Ninh thì tôi tin rằng bài Trách phận Ninh sáng tác ra để thỏa mãn mình, để mình hát …chứ không do một động lực danh tiếng hay kinh tế nào khác, bởi thế nên Ninh cần gì trưng ra công chúng một bản ký âm nào.
           Có cùng sống với Ninh mới hiểu và thông cảm lối sống của Ninh: lè phè, không bao giờ lớn tiếng, ít để ý những kiến thức mình không cần đến (có lần chúng tôi bẫy được chú heo rừng con còn sọc dưa, thế mà Ninh dám tuyên bố đó là heo hà nàm (!)) , Ninh nói ít như dành giọng để hát, vì khi có ai cầm cây đàn thì Ninh như …mèo thấy mỡ, phải cầm đàn và hát trước cho bằng được. Ninh là người theo chủ nghĩa bất vi, đừng ai nhờ làm điều gì nếu không muốn sốt ruột, trừ phi chính Ninh muốn làm điều đó.
           Mỗi buổi sáng vào rừng, thường thì Mai Xuân Thi (một em tuổi khoảng 16) hoặc anh Tường, anh Lai đi thăm bẫy. Chẳng ai nhờ đến tôi và Ninh vì cả hai không có số sát thú, có đi thì cả nhóm cũng đói meo thôi. A, có một lần. lần đó vào đầu năm 1981, hôm đó Ninh hẹn với bà xã vào rừng mang theo đồ thăm nuôi nên cả nhóm giao Ninh thăm bẫy luôn. Ninh thăm bẫy cả trăm mét mà chẳng thấy bẫy nào có cả,  Ninh mới thầm vái ông thần rừng cho có con mồi kha khá để về làm tiệc cho cả nhóm, chuẩn bị tiễn anh Hùng, Lai, Tường được về nhà. Đi hết dây bẫy , không có, thất vọng quay ngược về , bỗng Ninh nghe tiếng kêu cạnh đường bẫy, dò theo tiếng, Ninh “cứu” được con cheo đang vướng trong đám dây rừng, ngộ chưa.! Hai ba ngày sau, anh Tường lại vừa chặt củi vừa ước, tôi làm cách anh khoảng 10m bổng nghe một tiếng đụi thiệt to cạnh mình, nhìn kỹ thấy một chú khỉ mập mới té từ cao xuống. Tôi nói với anh Tường “Có rồi”, anh chạy qua ngó mới tin là thật. Lại một chuyện ngộ của hai thằng không sát thú !

            Ninh thật đúng là tay vô sản đệ nhất. Thăm nuôi vào, mang lỉnh kỉnh giỏ nọ túi kia, vào nhà là bắt đầu chia chác..đến chiều lại đi xin quấn một điếu thuốc rê. Đúng là Ninh đã đạt đến trình độ….thỏng tay vào chợ rồi. Nói vậy cũng đủ biết danh tiếng Ninh trong trại thế nào. Cần là có, có khỏi cần. Sắc sắc không không, sắc cũng được mà cùn cũng xong.

            Tháng 10-1981, chúng tôi ra trại, lao vào cuộc sống đầy khó khăn. Lâu lâu được tin nhau, khi thì Chiến đánh xe ngựa, khi thì đãi vàng, khi ở rẫy Dục Mỹ, khi vào Vũng Rô, lúc lại đi buôn, trăm thứ bà dằn. Ninh thì tàng hơn, xách đàn lang thang ca hát say sưa quên cõi ô trọc, có khi theo Chiến vào Vũng rô, Dục Mỹ. Năm 2000 Chiến về Nhatrang, Ninh theo vào coi đìa tôm, nhưng có lẽ không đúng nghề nên ít khi tôm cua thấy được mặt ông chủ. Giai đọan này Ninh hay hát bản Đường xưa lối cũ của Hoàng Thi Thơ, Đóa hoa vô thường của Trịnh Công Sơn. Mấy đứa con của Chiến : Gạo, Cám, Quỳnh, Dao cũng được Ninh cho thọ giáo mấy bài ruột này.
             Có lần Ninh lò mò lên tôi giấc 10 giờ khuya. Nghe Chiến báo, tôi chờ mãi, chờ mãi. Sáng sớm hôm sau thấy Ninh vào nhà, hỏi ra mới biết tối qua , mới đến đầu ngõ, cách nhà tôi khoảng 50 mét, thì ra say quá ngủ bên thềm người chị bà con của tôi.
             Sau chuyến coi đìa về lại nhà, sức khỏe Ninh yếu dần. Đến tháng 10-2003, gia đình tôi,gia đình Út và gia đình Chiến đáp tàu hỏa về thăm Ninh. Trông Ninh tiều tụy quá, chúng tôi không cầm được nước mắt. Chị Ninh cho chúng tôi hay mấy ngày nay Ninh đã lục tất cả những giấy tờ có liên quan đến cuộc đời mình mang ra đốt. Có lẽ Ninh đã dọn sạch những vướng phiền cỏi trần tạm bợ này để chuẩn bị cho chuyến đi định mệnh rồi.
             Đang nằm mê mệt trên chiếc giường sắt kê gần cửa sổ nhà trên, Ninh bỗng tươi tắn hẳn khi chúng tôi bước vào, Ninh ngồi dậy gọn khô, bảo bà xã đi mua bia về mở tiệc. Chị Ninh ngần ngừ dù chưa bao giờ thấy Ninh tươi tỉnh như hôm nay, nhưng sức khỏe của Ninh thì chị rõ hơn cả, chị bảo có lẽ gặp lại chúng tôi bất ngờ như trong mơ nên Ninh mừng như vậy. Thấy bà xã chần chờ không đi Ninh giục bằng giọng hơi gắt gỏng. Chúng tôi buồn nẫu ruột, hội ý nhau thôi cứ chiều cho Ninh được thỏa dạ lúc còn vui.

              Ngày hôm ấy, chúng tôi, nhà văn Y Nguyên, Phan Tấn Ích đùa vui, ca hát cùng nước mắt, Ninh cứ giành đàn –như lệ thường- ca hát như chưa từng có bệnh với thần thái tươi tỉnh chưa từng có. Lại những bài Đường xưa lối cũ, Đóa hoa vô thường… Những cuộc phân ly – hội ngộ trong các bài ca sao hôm nay như thêm nhiều nước mắt. Tôi buồn rầu nhớ một lời ca Ninh thường hát : Nghe con dế gáy, sao em thương cái góc nhà. Ngoài kia, có người nào vừa mới thở dài, bây giờ đã hoàng hôn hay chỉ mới sớm mai . Thôi thì cứ vui như chúng ta chưa từng vui vậy.
              Theo chúng tôi ra sân chụp ảnh còn có chị Ninh, bốn con của Ninh: Vy Vũ Huy, Út, Ninh dường như muốn nói với chúng tôi điều gì. Tôi quan sát vẻ chấp chới của Ninh mà tội nghiệp. Thôi thì coi như Ninh đã nói rồi, tụi mình hiểu nhau quá mà, chẳng trước thì sau, anh em chúng ta bày tiệc nối tiếp cuộc vui nơi chốn khác vậy.
              Gần đến giờ tàu chạy, chúng tôi chia tay nhau mà không dám tỏ vẻ buồn, dù linh cảm đây là lần gặp cuối.
              Một tháng sau, tôi đang ở Sài Gòn, nghe Chiến báo hung tin : Ninh đã ra đi lúc 9g00 sáng ngày Chúa Nhật 02-11-2003, nhằm ngày 09-10 năm Quý Mùi. Tôi vội cùng bà xã về nhà Chiến,gọi Út và thuê một chiếc xe ra Hòa Hiệp chia tay Ninh lần cuối. Chuyến xe này cũng nhờ tài trợ của anh bạn Cam Viết Luận bên Mỹ chuyển về khi Luận hay tin Ninh mất.
              Dọc đường đi, Chiến và tôi cùng làm một câu đối, ghé nhà sách nhỏ bên đường mua một tờ Croquis và một cây bút dầu đen để khi đến nhà Ninh viết treo lên cho Ninh ở phảng phất nơi nào đó chia sẻ nỗi niềm:
 
SINH BẤT PHÙNG THỜI, VƯỚNG NGHIỆP ĐAO BINH LỠ THẦY LỠ THỢ, MƯỢN CHÉN RƯỢU TIÊU SẦU RÓT SAY SƯA ĐỂ QUÊN TRỜI QUÊN ĐẤT.
ĐÒ CHƯA THẤY BẾN, PHẢI KIẾP PHONG TRẦN TRÁCH THÂN TRÁCH PHẬN, GIEO TƠ ĐÀN HÉO HẮT CHẲNG PHÔI PHAI NỖI NHỚ BẠN NHỚ ĐỜI
             
              Đến Hòa Hiệp thì Ninh đã được an táng, chúng tôi cùng gia đình Ninh đi bộ ra mộ mới đắp của Ninh. Bạn bè thắp cho Ninh tuần nhang, tưới cho Ninh một chai rượu mạnh mua vội bên đường và đốt câu đối cho Ninh thay lời từ biệt.
rồi đến lúc dây chùng, đàn vỡ
tiếng hát thiên thu bay xa
bão đã ngừng – mưa nhòa một thuở
thôi cũng đành
viên mãn một tài hoa
rượu đã thiên chung
thiên lý cũng từng
khuấy buồn điên đảo
chợ đời thỏng buông
buồn nhau ngắn dài vài giọt
đóa vô thường
vừa hé nở sáng nay .


 
Đặng Châu Long
Nguyên Tiêu Tân Mão

No comments:

Post a Comment