Sunday, December 2, 2012

TIẾNG QUÊ - THUẬN NGHIÃ

Hôm mồng một tháng chín năm nay, mình nhận được lời mời của trưởng lớp cũ về hội trường 35 năm của lớp 10K, nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập trường cấp 3 Lệ Thủy.

Mình ở xa không về được, nên trong buổi hội lớp đó, mình có gọi điện thoại về. Được nói chuyện với nhiều bạn bè, sau hơn một phần ba thế kỹ xa cách. Mình rất vui và xốn xang nhớ. Sau đó có xin số điện thoại của nhiều người, để có dịp gọi về thăm hỏi.

Người mình gọi về đầu tiên là con Hoàng Thị Lệ, tức là Lệ Hoàng. Lớp cũ của mình có hai Lệ. Là Lệ Hoàng và Cẩm Lệ. Nhưng hồi đó bọn trời đánh tụi mình ít khi gọi theo kiểu Thầy Cô thường gọi, mà bọn mình thường gọi theo cách dân dã là Lệ Cấn và Lệ Đát. Quê mình vậy đó, cứ gọi tên con kèm theo tên Cha cho nó dễ phân biệt con cái nhà ai hehehe....

Trong bọn con gái lớp 10K, con Lệ Hoàng, con Lưu, con Lý Đỗ, con Bé Lư..là những đứa mình thân nhất. Đặc biệt là con Lệ Hoàng. Ngày ấy vì chữ viết không ai đọc ra, nên mình thi tốt nghiệp bị trượt. Bọn cùng lớp thi đậu đi học chuyên nghiệp hết. Mình học lại lớp 10 với tụi thằng Hào Bớt, là Bloger Sao Hồng nổi tiếng bây giờ, được đâu mấy tháng thì bỏ học, vì hoàn cảnh gia đình.

Lúc đó mình về đốt lò gạch và nấu vôi, lặn cát cho HTX thủ công nghiệp Lệ Bình. Được đâu gần một năm sau. Đùng đùng nghe tin con Lệ Hoàng đang dạy học trong Quảng Trị về nghỉ đẻ ở nhà. Mình là đứa còi cọc nhất lớp. Thiệt tình khi nghe tin con Lệ Hoàng lấy chồng đẻ con, mình thấy ngồ ngộ. Vì khi đó mình vẫn như thằng con nít, đi chân đất, mặc quần thủng đít và vẫn con chơi cù, chơi đáo và chơi súng ống bốc làm cây hóp bắn bằng hột chập mầu.
  
Biết tin con Lệ về nghỉ đẻ, nên có ý định đến thăm hắn. Nghĩ nó bi chừ đã làm Mẹ rồi, thì mình cũng phải chững chạc cho ra người lớn, nên cứ loay hoay chọn áo quần mãi mà chả có cái nào còn lành, chỉ duy nhất còn cái quần tà lỏn là không thủng đít mà thôi. Giày dép cũng không có, cho nên mình mượn của Ba mình đôi giày vải Bộ Đội, rồi đóng quần tà lỏn về dưới Quảng Cư thăm con Lệ.

Khi ấy con Lệ mới đẻ con còn trong tháng, nên không ra tiếp mình, mà ngồi trong buồng nói chỏ ra. Mình hỏi hắn, răng mi lấy chồng sớm rứa?. Con Lệ nói, biết mô hè. Mình lại hỏi, lấy chồng bui(vui)không. Lệ nói, biết mô hè. Mình lại hỏi, đẻ dọc(mệt) không?. Lệ trả lời, dọc dưng mà bui. Mình không biết bui ra răng, ngồi gật gù, ừa ừa..bui hè..bui hè...Hồi lâu, con con Lệ khóc, con Lệ ru: „Hò ơi...đã yêu nhau thì yêu cho trót, cho ngọt, cho bùi...cho có tình ơ thương, đừng như con thỏ nọ nó đứng đầu truông, khi vui thôi đà chợn bóng...khi buồn ngắm ơ...ơ...ơ..trăng hò ơ...“. Quê mình rứa đó, là dân sông nước nên ru con cũng hò như chèo đò trên sông.

Mình nghe con Lệ ru con, không biết tại sao lại mũi lòng, nên không chào con Lệ mà lầm lũi ra về. Rồi từ đó biệt tăm cho đến bây giờ không gặp lại con Lệ Hoàng lần nào. Hôm đó mình mũi lòng khi nghe con Lệ ru con, ra gốc cây cừa(cây sanh) trên bến sông nhà anh Hộ. Ngồi vắt vẻo trên một nhánh cừa xõa rễ xuống dòng Kiến Giang, mình ngồi khóc ngon ơ, hu..hu..Mạ ơi, tình thương là răng hả Mạ...ơi.

Hôm gọi điện thoại về cho con Lệ, hỏi hắn, bi chừ mi mần chi. Lệ trả lời, tau nghỉ hưu rồi, chừ ở dzà chự cháu chứ mần chi mô. Xa quê mấy chục năm, nên tiếng quê cũng có phần sao nhãng. Nghe con Lệ trả lời, mình phải chạy bộ nhớ xoành xoạch mới hiểu là con Lệ nói, mình nghỉ hưu rồi, bây giờ chỉ ở nhà giữ cháu chứ không làm gì cả. Mình hỏi, mi có cháu ngoại rồi à. Hắn nói, có lâu rồi, mấy đứa luôn, còn mi thì răng. Mình nói, tau bi chừ mới bập bẹ học yêu hehehehe..... Lệ lại hỏi, hồi học, mi ngu rứa răng chừ mi thơ văn dữ dội rứa hè. Mình nói, nhờ mi đó. Nhờ răng?. Thì nhờ cái hồi tau còn mặc quần lủng đít, đến thăm mi đẻ con, nghe mi hò mái đẩy ru con, nên bi chờ hắn thấm vô máu thành ra thơ ra văn chơ răng. Lệ cười, mi chỉ có cái nói trẹp(bốc phét) thì tài.

Nói thì như nói đùa, nhưng có lẽ là vậy, có lẽ cái điệu hò khoan, hò hụi Lệ Thủy cùng với sông nước Kiến Giang chảy vào trong máu thịt của mình, nên bây giờ tôi mới ghiền Lục Bát như vậy.

Hôm tuần trước, có một quán Trà Đạo của người Nhật, mới mở ở vườn hoa Dammtor. Mời mình làm việc giới thiệu Trà Việt vào tối thứ Sáu mỗi tuần. Khi ký hợp đồng làm việc, họ không hỏi về gì lý lịch cá nhân cả, chỉ hỏi là thuộc nhóm máu nào. Nghe nói người Nhật nhận người làm chú trọng nhất là nhóm máu. Nghe họ hỏi vậy, mình trả lời là thuộc nhóm máu Lục Bát. Họ hỏi, Lục Bát là nhóm máu gì. Mình cười, ứng khẩu luôn:

Điếu Ngư đài, Điếu Ngư đài
Của ai, ai đã, của ai bây giờ
Ngỡ rằng đạt ngộ ngu ngơ
Mà sao máu bật mím bờ môi căm.

Mấy thằng Nhật, cớ trơ mắt thao láo ra nhìn. Mình cười phơ phớ rồi về, bụng bảo dạ, Trà Đạo cứt gì mà không biết Lục Bát, thì sao là gọi là Trà Đạo được... hehehehe....

MỐI TÌNH TỔNG THỐNG NGUYỄN VĂN THIỆU - TỪ KẾ TƯỜNG

Từ khi còn là một tay Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, Thiệu đã có một cuộc tình thi vị, lãng mạn với cô gái quê nghèo khó bên bến sông Cầu – Phú Yên. Vì cuộc tình này mà sau đó, khi biết nàng Oanh ở bến Sông Cầu thành bồ nhí của một tay cấp dưới của mình, Thiệu đã thẳng tay vùi dập công danh của tay cấp dưới dám “trêu gan Tổng thống”.

Nàng Oanh, cô gái lai Tây ở bến sông cầu Phú Yên

Năm 1954, Nguyễn Văn Thiệu lúc đó là Thiếu tá, tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn địa phương quân đóng tại Sông Cầu, Phú Yên. Mỗi ngày vị Thiếu tá tiểu đoàn trưởng bảnh trai, oai vệ đều có dịp đi ngang bến Sông Cầu và trong một lần rất tình cờ, Thiếu tá Thiệu đã gặp một cô gái rất đẹp, có gương mặt lai Tây, da trắng, dáng cao, rõ ràng là một hoa khôi trong vùng.
Ngay lần gặp đầu tiên, Thiếu tá Thiệu đã “kết mô đen” cô gái lai Tây đẹp ngời ngời này. Cất công tìm hiểu gia thế cô gái, Thiệu được biết  cô là con gái của một góa phụ, người địa phương, gia cảnh nghèo khổ. Cô gái tên Oanh nên thường được gọi là nàng Oanh.
Sau vài lần lui tới viếng thăm, Thiếu tá Thiệu chiếm được cảm tình của người đẹp và bà mẹ nghèo lam lũ. Dưới mắt hai mẹ con, viên Thiếu tá tiểu đoàn trưởng oai vệ, đẹp trai, người Phan Rang nói được hai thứ tiếng Pháp, Anh lưu loát là một mẫu đàn ông lý tưởng.
Do đó việc nàng Oanh từ chỗ cảm phục đi đến yêu say đắm viên Thiếu tá đẹp trai chỉ là “một việc phải đến đã đến”.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
                          Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Ngược lại Thiếu tá Thiệu dù đã có vợ là Mai Anh ở nhà, nhưng là người lính trong thời chiến, rày đây mai đó chẳng biết sống chết thế nào, lại xa vợ con, thiếu thốn tình cảm nên trước một cô gái trẻ trung, xinh đẹp như nàng Oanh chẳng khác nào một thỏi nam châm có sức hút mãnh liệt trái tim hạn hán của chàng lính trẻ xa nhà, thiếu thốn tình cảm.
Và chuyện gì phải đến đã đến, họ trở thành một đôi tình nhân hết sức lãng mạn của những đêm trăng đẹp tại bến Sông Cầu.
Giữa lúc cuộc tình của viên Thiếu tá tiểu đoàn trưởng và cô gái lai Tây tại bến Sông Cầu ngày càng trở nên thắm thiết thì đùng một cái, Thiếu tá Thiệu được lệnh chuyển quân.
Thời gian chia tay ngắn ngủi, nàng Oanh cũng chỉ biết tin theo những lời thề non, hẹn biển của viên Thiếu tá hứa chắc như đinh đóng cột rằng sẽ quay trở lại bến Sông Cầu một ngày không xa.
Nhưng rồi không biết bao nhiêu mùa trăng treo trên bến Sông Cầu, có một người con gái vẫn luôn mong ngóng bóng hình viên Thiếu tá quay trở lại mà hình bóng ấy vẫn mãi mịt mù, chẳng khác nào bóng chim tăm cá.

Cuộc chia tay đầy nước mắt

Thời cuộc biến chuyển, Thiếu tá Nguyễn Văn Thiệu cũng bị xoay theo những cơn lốc lịch sử và cuộc đời binh nghiệp nay đây mai đó theo những cuộc hành quân vạn dặm mà mỗi ngày mỗi xa hình bóng cô gái ở bến Sông Cầu đã từng khóc hết nước mắt trong ngày chia tay.
Giờ đây, Thiếu tá Thiệu đã thăng Trung tá, có lẽ ông ta cũng chẳng còn nhớ gì đến ánh mắt của nàng Oanh, bom đạn chiến tranh đã xóa nhòa tất cả và trái tim của Trung tá Thiệu giờ là Trung đoàn trưởng chắc cũng không còn khoảng trống để chứa tình cảm của cô gái mà hình bóng đã nhạt nhòa ở tận cuối chân trời.
Huống chi con đường binh nghiệp của Nguyễn Văn Thiệu lúc đó đang gặp thuận lợi, còn có cơ hội để tiến xa trong tương lai mà đối với Thiệu, công danh sự nghiệp là trên hết, tình cảm chỉ là chuyện gia vị của một bữa ăn đời thường trên bước đường binh nghiệp.
Quả nhiên, thời cuộc biến chuyển rất nhanh sau năm 1954, Bảo Đại bị truất phế, Ngô Đình Diệm từ Thủ tướng lên làm Tổng thống của nền đệ nhất cộng hòa, Nguyễn Văn Thiệu cũng như nhiều sĩ quan binh lính của Pháp chuyển sang lính của Việt Nam Cộng Hòa và năm 1955.
Thiệu thăng cấp Đại tá, giữ chức Chỉ huy trưởng trường Võ bị Đà Lạt, một trường “đại học” chuyên đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp mà sinh viên phải tốt nghiệp tú tài đôi mới được gọi vào học, khi ra trường được móc luôn lon Thiếu úy không qua cấp chuẩn úy như sĩ quan trừ bị Thủ Đức và có thể lên tới cấp Tướng.
Năm 1962, Nguyễn Văn Thiệu giữ chức Sư đoàn trưởng Sư đoàn 5 Bộ binh. Và chỉ 1 năm sau đó, 1963, Nguyễn Văn Thiệu tham gia vào nhóm tướng lãnh đảo chánh kéo quân về vây Đinh Độc Lập lật đổ Ngô Đình Diệm.
Cuộc đảo chánh thành công, anh em Diệm Nhu bị giết, Nguyễn Văn Thiệu cũng đóng góp công lao vào vụ lật đổ này nên được phong Tướng rồi nhảy luôn vào chính trường và chỉ một thời gian sau, do biến chuyển của thời cuộc, Nguyễn Văn Thiệu lên làm Quốc trưởng của nền đệ nhị cộng hòa.
Nấc thang danh vọng và quyền lực của Thiệu như vậy là đã lên đến tột đỉnh. Lúc này chắc chắn Nguyễn Văn Thiệu chẳng còn nhớ gì đến nàng Oanh ở bến Sông Cầu ngày xưa.

Cơ hội gặp lại nàng Oanh

Khi Nguyễn Văn Thiệu làm Quốc trưởng thì thời đó (1965-1967) tỉnh trưởng Phú Yên là Trung tá Trần Văn Hai, biệt danh Hai “trề”. Trần Văn Hai quê Cần Thơ, được tiếng là một sĩ quan thẳng thắn, không nịnh bợ, hết lòng vì nhiệm vụ.
Phú Yên thuộc vùng 2 chiến thuật mà tư lệnh vùng 2 là Trung tướng Vĩnh Lộc - một sĩ quan thuộc hoàng tộc, anh em với Bảo Đại và rất thân cận với Bảo Đại, khi trở thành sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thời Ngô Đình Diệm, cũng là một tướng lãnh thân Diệm và có nhiều thế lực.
Là tư lệnh vùng 2, tức tướng vùng, Vĩnh Lộc chẳng khác nào một ông vua không ngai, chỉ đứng sau Phủ Đầu Rồng và chỉ huy tối cao Nguyễn Văn Thiệu.
Vĩnh Lộc ỷ thế tướng vùng nên khi đi thăm thú đâu đó, nhất là các đơn vị đóng quân ở Tây Nguyên thường biểu lộ tính ngông nghênh không thèm đi ô tô mà… cưỡi voi cho nó “sốc”. Bởi vậy nên khi nói đến Vĩnh Lộc, người ta cũng kêu luôn biệt danh của viên tướng ngông nghênh này là  “Anh cả Trường Sơn”.
Một hôm Vĩnh Lộc bất ngờ gọi cho Trần Văn Hai, tỉnh trưởng Phú Yên đích thân mang “công xa” của tỉnh trưởng ra sân bay đón ca sĩ Minh Hiếu, “người yêu bé nhỏ” của mình rồi đưa về dinh tỉnh trưởng nghỉ ngơi, tiếp đãi trọng hậu để chờ Vĩnh Lộc vào sau do bận việc.
Tỉnh trưởng Hai “trề” dư biết ca sĩ Minh Hiếu là ai, đóng vai trò gì với Trung tướng Vĩnh Lộc, cấp trên trực tiếp của mình. Nhưng Trung tá Hai “trề” cũng ngông nghênh không kém Vĩnh Lộc, khi nhận được lệnh đã nổi máu điên, chỉ chấp hành có một nửa lệnh trên.
Thay vì dùng công xa của tỉnh trưởng ra sân bay đón người đẹp cho hoành tráng, Hai “trề” dùng xe riêng của mình ra đón, và thay vì đưa nàng Minh Hiếu thẳng về dinh tỉnh trưởng cho long trọng, lại cả gan vứt người đẹp ở một khách sạn sang trọng nằm trên đường Lê Thánh Tôn thị xã Tuy Hòa.
Ca sĩ Minh Hiếu lúc đó đang nổi tiếng như cồn, bài tủ của cô ca sĩ này là bài “Quen nhau trên đường về” và là người yêu của ca sĩ Nhật Trường tức nhạc sĩ Trần Thiện Thanh.
Chính vì bị ông tướng vùng 2 Vĩnh Lộc dùng uy quyền “cuỗm” mất người yêu nên Trần Thiện Thanh lúc đó chỉ là một hạ sĩ quan Tâm lý chiến vừa thất tình, vừa oán hận đã sáng tác bài “Hoa trinh nữ” để than thân trách phận, đồng thời trách luôn cả nàng Minh Hiếu đã tham tướng, bỏ lính… vì vậy trong bài “Hoa trinh nữ” đã có câu: “Tôi không phải là vua nên mộng ước thật bình thường”.
“Vua” ở đây ám chỉ “vua không ngai" Vĩnh Lộc “Anh cả Trường Sơn”. Khi Vĩnh Lộc vào tới Phú Yên, gặp nàng Minh Hiếu, người đẹp liền tỉ tê, trách móc việc bị Hai “trề” xem thường sau đó rồi giận dỗi bỏ về Sài Gòn.
Mất hứng, lại bị bẽ mặt với người đẹp, Vĩnh Lộc đã nổi điên lấy cớ Hai “trề” làm tỉnh trưởng chẳng được cái tích sự gì, để cho Việt Cộng đánh Phú Yên tơi bời rồi… cách chức tỉnh trưởng Phú Yên, chuyển ra đơn vị chiến đấu ngoài mặt trận.
Người thay thế Hai “trề” giữ chức tỉnh trưởng Phú Yên là Trung tá Trần Văn Bá. Và đây là cơ hội để Nguyễn Văn Thiệu tìm lại nàng Oanh, người đẹp ở bến Sông Cầu.

Tìm lại người xưa

Trung tá Trần Văn Bá chẳng phải ai xa lạ, lúc Nguyễn Văn Thiệu làm Tiểu đoàn trưởng, đóng quân ở bến Sông Cầu Phú Yên thì Trần Văn Bá mới là Trung úy Tiểu đội phó, thuộc cấp của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Thiệu.
Năm 1971, sau khi xích mích với Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu “độc diễn” ứng cử Tổng thống. Màn độc diễn… có một không hai này thành công tốt đẹp, Nguyễn Văn Thiệu “lên ngôi”.
Nhân lúc tỉnh trưởng Phú Yên còn khuyết người, Nguyễn Văn Thiệu đưa luôn Trần Văn Bá bấy giờ là Thiếu tá thăng luôn Trung tá lên ngồi ghế tỉnh trưởng Phú Yên.
Bởi Trần Văn Bá là con của bác sĩ Trần Văn Chẩn - Giám đốc Bệnh viện Mỹ Tho, vừa là thuộc cấp cũ, vừa là họ hàng với bà Mai Anh, vợ của Nguyễn Văn Thiệu, không ai có đủ chuẩn để ngồi vào ghế này hơn Trần Văn Bá.
Sau đó không lâu, Nguyễn Văn Thiệu có chuyến kinh lý Phú Yên. Khỏi phải nói, “đệ tử ruột” Trần Văn Bá đã tổ chức đón tiếp Nguyễn Văn Thiệu long trọng đến cỡ nào.
Tại dinh tỉnh trưởng, đang trong buổi đại tiệc tiếp đón Tổng thống diễn ra tưng bừng, đầy khí thế bỗng dưng Nguyễn Văn Thiệu quay qua hỏi Trần Văn Bá một câu bất ngờ, khó đỡ:
-  Cô Oanh ở bến Sông Cầu bây giờ ra sao, có còn ở chỗ ngày xưa không?
Trần Văn Bá đang nhậu, mặt đỏ như mặt trời mọc bất ngờ nghe câu hỏi trên bỗng dưng tái mét, xanh như đít nhái. Bởi hơn ai hết, khi còn là thuộc cấp của Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Thiệu thủa đóng quân tại bến Sông Cầu, Trần Văn Bá biết mối tình thắm thiết giữa Thiệu và cô gái lai Tây thường được gọi thân mật là nàng Oanh.
Nhưng rồi Thiệu chuyển quân ra mặt trận, bỏ nàng Oanh ở bến Sông Cầu vò võ đợi trông, chẳng biết bao giờ người xưa trở lại nên sau đó nàng Oanh đã lấy một anh lính địa phương quân làm chồng. Anh này tên Hoanh, chẳng may anh Hoanh tử trận.
Thực hiện chính sách đối với gia đình thương binh, tử sĩ của chính Nguyễn Văn Thiệu ban hành, Trần Văn Bá tìm nàng Oanh vợ của tử sĩ đưa về dinh tỉnh trưởng làm điện thoại viên, trực điện thoại văn phòng tỉnh trưởng.
Cô gái ở bến Sông Cầu vẫn đẹp rực rỡ, không chỉ là một bông hoa tươi thắm trang trí cho văn phòng tỉnh trưởng mà còn là thư ký riêng, nhân tình của Trung tá Tỉnh trưởng Trần Văn Bá.
Rồi theo thời gian, từ vai trò nhân tình, tiến lên một bước thành “vợ bé”, cuối cùng thì nàng Oanh ở bến Sông Cầu, từng là người yêu của Nguyễn Văn Thiệu đã sinh cho Tỉnh trưởng Trần Văn Bá một cậu con trai kháu khỉnh.
Thế mới rắc rối. Trần Văn Bá lo cuống cuồng, sợ chuyện đổ bể, tới tai bà vợ dữ dằn, máu ghen còn hơn Năm rado vợ của Trung tá Thức công binh tạt axít vũ nữ Cẩm Nhung thì ít mà sợ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phát hiện thì nhiều. Bởi nếu Thiệu phát hiện ra chuyện này thì cuộc đời, sự nghiệp của Bá chắc chắn sẽ tan thành mây khói.

Trần Văn Bá cũng tiêu đời như Trần Văn Hai

Nàng Oanh ở bến Sông Cầu lại không ngây thơ, trong lúc Trần Văn Bá muốn ém nhẹm sự việc tày đình thì người đẹp lại muốn công khai hóa chuyện Trần Văn Bá ăn ở với mình để làm áp lực vòi vĩnh tiền bạc và quyền lợi.
Nàng Oanh đi đâu cũng ẵm con theo, công khai nói đó là con của ông tỉnh trưởng và yêu cầu Bá làm khai sinh cho con trai đứng tên cha hẳn hoi.
Ông tỉnh trưởng biết đã “vào tròng” thì đã muộn nên mọi yêu sách của nàng Oanh bến Sông Cầu đều được đáp ứng đầy đủ kể cả việc mua một ngôi biệt thự, đầy đủ tiện nghi cho hai mẹ con nàng Oanh ở chỉ với mục đích nàng Oanh đừng làm ầm ĩ chuyện Bá trót lỡ dại nên gây ra thảm họa khó lường mà thôi.
Nhưng cái mà Bá không lường nổi là Nguyễn Văn Thiệu sau bao nhiêu năm tháng vật đổi sao dời, hoàn cảnh đổi thay, biến cố dồn dập, tưởng rằng khi lên đến tuyệt đỉnh danh vọng và quyền lực, Thiệu không còn tâm trí và thời gian để nhớ chuyện xưa, một mối tình qua đường với cô gái ở bến Sông Cầu xa lắc.
Thế mà Thiệu vẫn nhớ và Trần Văn Bá biết ngày tàn của mình đã tới, nhưng với bản chất xảo trá, ham danh lợi và quyền lực, Trần Văn Bá không thể bó tay ngồi chờ chuyện xảy ra mà phải lật ngược tình thế.
Thiệu đả hỏi thế tức là chưa biết mối quan hệ chết người giữa hắn và nàng Oanh ở bến Sông Cầu nên Bá còn hy vọng để lấp liếm. Thế là Bá tạm yên tâm, tìm cách nói cho qua chuyện với hy vọng trên cương vị Tổng thống, bây giờ Thiệu sẽ không tìm hiểu sâu chuyện này và nhanh chóng bỏ qua.
Suốt những ngày sau đó, Trần Văn Bá cuống cuồng lo tìm đủ mọi cách để che mắt Thiệu và để Thiệu không còn những ý nghĩ bất chợt về nàng Oanh bên bến sông Cầu.
Nhưng Bá đã lầm, câu hỏi của Nguyễn Văn Thiệu không phải một câu hỏi vu vơ. Thiệu cũng không bao giờ bỏ qua những nghi vấn trong đầu mình. Bằng quyền lực và nhiều tai mắt ở tại dinh tỉnh trưởng của Trần Văn Bá, ít lâu sau Thiệu đã biết tỏng mọi chuyện và nổi điên lên vì tay “đệ tử ruột” lại dám cả gan “phỗng tay trên” … đĩa mứt gừng của mình xơi lén.
Bằng nhiều lý do có cơ sở, Nguyễn Văn Thiệu đã lần lượt đánh cho Trần Văn Bá tơi tả và cuối cùng cách chức tỉnh trưởng Phú Yên của Trần Văn Bá khiến hắn ôm hận mà chẳng biết làm sao để rửa hờn, bởi kình địch và tình địch của Bá lại là…Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Cuối cùng Trần Văn Bá chỉ còn cách ngước cổ lên trời bắt chước Chu Du của Đông Ngô mà than ai oán rằng: “Trời đã sinh Bá tại sao còn sinh Thiệu”? Một câu hỏi thậm ngu!.

Đoạn kết của nàng Oanh ở bến sông Cầu

Sau khi Trần Văn Bá bị cách chức tỉnh trưởng Phú Yên, bị Nguyễn Văn Thiệu chơi cho thân bại danh liệt, công danh sự nghiệp, kể cả con đường binh nghiệp cũng tiêu vong thì nàng Oanh ở bến Sông Cầu không còn lý do gì để yêu sách nọ kia với Trần Văn Bá nữa.
Nguyễn Văn Thiệu hạ Trần Văn Bá vì tội dám trêu gan Tổng thống chứ chẳng phải vì mục đích muốn chiếm lại nàng Oanh ở bến Công Cầu.
Bởi lẽ, trong mắt Thiệu, nàng Oanh bây giờ không còn là nàng Oanh ngây thơ, trong sáng của ngày xưa lúc gạt lệ chia tay Thiếu tá Thiệu dưới bóng trăng huyền ảo nơi bến Sông Cầu lãng mạn, đầy tình tứ mà là một phụ nữ đã có con với một anh lính quèn, rồi còn sống “già nhân nghĩa non vợ chồng” với Trần Văn Bá - viên tỉnh trưởng thuộc quyền của mình. Kịch đã hạ màn thì vai diễn cũng chấm dứt.
Chỉ khổ cho nàng Oanh, không còn là bồ nhí của Trần Văn Bá, lại không thể nào nối lại tình xưa nghĩa cũ với Nguyễn Văn Thiệu, cuộc đời nàng Oanh đang sống trong nhung lụa bỗng chốc mất tất cả.
Về sau, nghe đâu nàng Oanh ở bến Sông Cầu lại lấy thêm một đời chồng nữa, đó là ông N.H.T, dân biểu chế độ cũ sống tại Phú Yên. Đến năm 1990, ông dân biểu này cùng nàng Oanh xuất cảnh sang Mỹ theo diện HO nhưng qua Mỹ rồi thì đường ai nấy đi. Từ đó nàng Oanh ở bến Sông Cầu cũng mất tăm, biệt dạng.
  • Từ Kế Tường

ANH HÙNG THỜI CẬN CHIẾN - THUẬN NGHIÃ

Cuối tuần con Chung từ Giessen đến thăm tôi. Thấy mặt nó buồn xo, tôi hỏi, mi lại có chuyện chi mà ngó buồn rứa. Mắt nó rơm rớm, anh Đô bị kỷ luật rồi. Răng rứa?. Dạ, nghe nói anh không tuân theo chỉ thị của cấp trên, tự chỉ huy tàu mình đụng chạm với tàu Hải Giám của Trung Quốc, nên bị tước danh hiệu Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang chuyển công tác về đồn Biên Phòng ở Lao Bảo rồi. Tôi nghe nó nói, tức không chịu nổi, văng tục, con bà nó, thằng Đô đẻ ra dưới nước, chuyển hắn lên rừng công tác, khác chi chặt tay, chặt chân hắn chớ. Con Chung rầu rầu, rứa đó, rứa đó...chú nờ.

  Con Chung người cùng quê tôi, là chỗ quen biết từ xưa, nên khi nó sang làm Master bên Đức, thì chú cháu thường liên lạc với nhau. Hơn hai năm trước, tôi đọc trên báo mạng, có mẩu tin ngắn nhắc đến chiến công  của trung tá anh hùng lực lượng vũ trang Trần Quang Đô. Tôi gọi điện thoại hỏi con Chung, có phải thằng Đô nhà mình không?. Con Chung tự hào, dạ, đúng eng nớ đó, eng nớ là niềm tự hào của bộ đội Hải Quân trong việc anh dũng kiên cường bảo vệ biển đảo của Tổ Quốc đó chú nờ. Tôi hả dạ, sướng hè, sướng hè..., thằng ni khá hè, khá hè...

  Miệng thì nói sướng hè, sướng hè...nhưng trong thâm tâm tôi có chút hổ thẹn. Thằng Đô con nhà nghèo, ít học vậy mà có chiến công hiển hách, biết cống hiến cả đời trai cho sự nghiệp bảo vệ biên cương, biển trời của Tổ Quốc. Những thằng có học như tụi tôi, chỉ được cái ăn tục nói phét, chuyên đánh giặc mồm. Đã mang thân tha hương, làm cu ly cho ngoại bang, chẳng có công sức gì trong việc bảo vệ non sông, lại còn dở thói la cà trên mạng, tha hồ chửi đổng, khoa môi múa mép làm kẻ sĩ, ra vẻ như là những nhà ái quốc chí sĩ vĩ đại lắm không bằng.

 Tôi lại cứ hỏi đi hỏi lại con Chung, họ chuyển anh mi lên Lao Bảo à, là chuyển anh mi lên rừng, lên đó thì anh mi mần được cái chi chớ, tước danh hiệu anh hùng thì cũng được, ẻ quẹt vô ba thứ đó, nhưng răng không để cho hắn ở biển chớ, kỷ luật hắn thì hạ cấp bậc hắn được rồi, mắc mớ chi đày hắn lên rừng chớ, con bà chúng chớ, ngu ngu...ngu..ngu...hỏi một thôi một hồi, chửi đổng một thôi một hồi, rồi tôi rưng rưng như ngấn lệ, thở dài, con bà nó, lịch sử lại lặp lại à...

 Con Chung tò mò, lịch sử lặp lại là răng hả chú. Cảm thấy con Chung muốn biết điều gì, tôi đánh trống lãng khỏa lấp, thì tau nói rứa thôi, lặp lại là lặp lại chớ răng. Nhưng mà lặp lại cấy chi chơ? Hình như chú có chuyện chi giấu tụi con. Tôi quạu, có chuyện cứt chi mà dấu, tụi mi con nít, lo chuyện học hành đi, nghĩ chi ba cái chuyện tầm phào cho nhọc xác. Con Chung thấy tôi quạu, im re. Còn tôi thì thở dài thườn thượt. Cuốn phim cuộc đời 35 năm trước, từ từ tái hiện lại trước mắt tôi…

... Năm 1977, cuộc chiến huynh đệ tương tàn đã kết thúc hai năm. Nhưng trên quê tôi, hình như vẫn chưa phai mùi súng đạn và chết chóc. Đồng ruộng làng quê xơ xác điêu tàn, thanh niên trai tráng phần chết trên chiến trường, phần biệt xứ đi nơi khác làm ăn hết. Bão lụt, hạn hán triền miên. Dư âm của cuộc chiến thương đau chưa phai nhạt, thì ám ảnh của sự đói rét lại bắt đầu phủ trùm xuống làng quê nghèo của chúng tôi.

  Nhà tôi neo người, Ba tôi đau yếu triền miên. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo ấy của thời cuộc, tôi đành bỏ học, đi làm xã viên hợp tác xã thủ công nghiệp, đúc gạch và nấu vôi, phụ giúp gia đình trong cơn bỉ cực.

 Thuở ấu thơ tôi là đứa trẻ ngang tàng, nghịch ngợm, nhưng lại hiếu học, hiếu đọc và rất tự trọng. Buộc phải bỏ học vì hoàn cảnh, tôi đau đớn lắm, nên rút mình vào trong cái vỏ ốc mặc cảm. Tôi không quan hệ với bạn bè cùng trang lứa nữa, mà sống thu lại với thế giới của riêng mình.

 Ban ngày úp mặt xuống dòng sông Kiến Giang, lặn cát, lặn sạn về cho hợp tác xã đúc gạch táp lô. Tối về tôi lại mò mẫm ra đồng bắt cua, nơm cá, đốt lửa giữa đồng nướng ăn chóng đói. Hầu như suốt mùa hè chẳng có đêm nào tôi ngủ ở nhà.

 Gần nhà tôi, phía ngoài đồng, giữa ranh giới hai làng Hoàng Giang và Phan Xá, có một cồn đất cao. Nơi đó trong chiến tranh, có một ụ pháo 12 ly 7, của dân quân, bấy giờ đã thành một cồn hoang. Ban đêm tôi thường ra đó, bẻ cành phi lao lót ổ nằm ngủ, vừa mát mẻ, vừa yên tĩnh, tôi tha hồ chìm đắm vào thế giới mộng mơ của tuổi 17  giữa cánh đồng rì rào biển lúa.

  Một đêm, tôi đang lúi húi, móc buồng chuối lùn mà tôi đầo dú với lá sầu đâu trong hóc đất nơi cồn hoang ấy để đánh chén bữa khuya, thì nghe tiếng hô từ dưới hói (lạch nước) vang lên, ai, đứng yên giơ tay lên, nhúc nhích là bắn. Mặc dầu tiếng hô to, bất chợt, nhưng chẳng làm tôi giật mình. Vì ban đêm, trên cánh đồng này, trên cồn hoang này, tôi là chúa tể. Là chúa tể thì còn sợ ai nữa chứ. Một phần tôi cũng biết tiếng hô ấy là của ai, nên bình thản, hê hê hê...có súng ẻ mô mà bắn. Tiếng nói từ dưới hói lại vọng lên, con cái nhà ai, giờ ni mần chi ngoài ni, đứng đó không được chạy nghe chưa. Tôi lại hê hê hê..., tui không đứng thì eng mần chi tui, eng bay theo à. Tiếng ừng ực uất nghẹn từ dưới hói lại vang lên, mi đứng đó, coi tau nì...

...Xoẹt, xoẹt...tiếng thuyền nan rẽ cỏ ào ào vút tới. Ùm...tiếng người nhảy vội xuống nước. Xoẹt xoẹt..tiếng kéo lê vội vàng trên cỏ. Cuối cùng rồi anh cũng trườn đến được gò đất tôi đang ngồi. Anh quì trên đôi chân cụt của mình, tay dơ cao cái chầm chỉa vào tôi, ai, đứng yên giơ tay lên, không tôi bắn...Tôi vẫn thản nhiên nhồm nhoàm nhai chuối, hì hì...báo cáo đồng chí Đại úy, đồng chí có mô súng mà bắn hì hì....mời đồng chí Lấu ngồi xuống, mần mất trấy chuối đi hè. Anh vẫn còn tức, lầu bàu, mi là con cái nhà ai mà biết tau. Đồng chí không biết tui, chớ cả cái huyện ni không ai là không biết đồng chí Đại úy, đại đội trưởng đặc công nước Trương Quang Lấu cả. Anh, lết lại gần tôi và ngồi xuống, cười, hì hì, là trung úy, đại đội phó thôi. Anh nói. Và không cần biết tôi con cái nhà ai, giờ này ra đồng ngồi làm chi, anh bắt đầu thao thao kể về những trận đánh đầy huyền thoại của anh trong trung đoàn 27 Triệu Hải. Không biết những trận đánh ấy thực hư ra sao, nhưng chuyện anh kể về Đại đội đặc công nước của anh ở Cửa Việt, nghe cực kỳ hấp dẫn và thú vị, nên tôi cứ há hốc mồm ra nghe anh kể, thỉnh thoảng lại thít thà.. rứa à, rứa à….

 Chuyện chiến đấu của anh trong Trung đoàn 27 Triệu Hải với chiến dịch 81 ngày đêm Thành Cổ Quảng Trị là có thật. Chuyện anh xém được đề nghị truy phong anh hùng lực lượng vũ trang là có thật, ai cũng biết, ít nhất là theo lời những người khác kể lại. Nhưng chuyện, vì sao anh bị cụt hai chân, vì sao anh trở thành con ma đồng, vất vưỡng kiếm sống, mà không có một chế độ chính sách đãi ngộ gì thì ít ai biết. Ai hỏi, thì mặt anh dài thườn thượt, bảo đang làm hồ sơ hưởng chế độ thương binh.

 Mãi sau này, khi quen thân anh, qua những câu chuyện của anh, chắp vá lại, tôi mới biết rõ ràng là vì sao anh ra nông nổi này

 Quảng Trị giải phóng, nhưng chiến tranh vẫn chưa kết thúc. Anh và đại đội của anh, nhận lệnh ở lại bảo vệ Cửa Việt. Thời đó, không những dân đói, mà bộ đội cũng thiếu ăn. Anh thương đồng đội, bày trò chế mìn tự tạo, ném xuống sông bắt cá về cải thiện. Một lần anh cùng một đồng đội đi ném mìn, bị cướp dây cháy chậm, mình nổ trên tay, bạn anh chết tan xác, anh chỉ bị thương, sau đó bị kỷ luật, thuyên chuyển về huyện đội Hướng Hóa.

 Về Hướng Hóa, anh lại bỏ gác, lò mò vác súng đi săn thú cải thiện cho anh em. Lớ ngớ dẫm phải mìn sót lại, bị cụt cả hai chân. Một chân cụt ngang đầu gối, một chân cụt gần đến bẹn. Anh bị tước quân tịch, đuổi về địa phương, nên không được hưởng một chế độ gì cả.

 Anh người làng Hoàng Giang,  nhưng nhờ người mai mối, lấy được chị Diếc, có tật sứt môi, hở hàm ếch ở làng Qui Hậu bên kia sông. Từ ngày lấy vợ, anh chuyển sang ở bên nhà vợ. Vợ anh làm nghề chằm nón, thu nhập thấp. Anh sắm một chiếc thuyền nan, một bộ câu cặm và từ đó gắn bó với cánh đồng Xuân Thủy về đêm.

 Anh di chuyển bằng hai tay chầm với chiếc thuyền nan nhỏ bé của mình. Vậy mà chẳng có nơi nào trên những cánh đồng bao la của Hai Huyện là anh không biết tới. Khi lên bộ, thì anh bó cái chân cụt bằng một cái mo cau. Hai tay anh chống hai bên, phi cái chân cụt bó mo tới trước, rồi quăng mình, lết người theo. Anh di chuyển khó khăn, nhưng khi cần nhanh, cũng nhanh ra phết.

 Trên cạn anh là vậy, nhưng khi xuống nước, dù cụt hai chân, nhưng anh rất xứng danh với hai chữ Thủy Thần. Về lặn lội, tôi cũng liệt vào quái thủ. Có thể lặn chay, tay không bắt cá bống dưới đáy sông được, nhưng so với anh là cái đinh. Nhìn anh, bơi lặn, lườn trượt, toài bò đi vun vút giữa bùn sình, lau sậy mà mê. Không thể nói anh là rái cá được, mà phải nói là Thủy Thần thì mới đúng.

 Rồi từ cái đêm hôm đó, tôi và anh trở thành đôi bạn thân. Dạo tôi quen anh, là vợ anh mới đẻ thằng Đô. Nhà anh túng quẩn lắm. Tôi cũng chẳng khá gì hơn, nên không giúp gì được anh. Chỉ còn cách là hàng đêm, theo giúp anh đi thăm câu. Hàng trăm cái cần câu cặm, cắm khắp các bờ ruộng, bờ kênh. Phải năng đi thăm câu, mới có cơ hội bắt được nhiều cá. Bởi nếu không thăm câu thường, rắn đẻn, rắn nước... chúng tợp hết trước mồi, nên cá chẳng có mà mắc câu.

 Anh thân tôi, mến tôi là vì tôi biết lắng nghe những trận đánh của anh và đồng đội trên mặt trận Quảng Trị mà anh kể đi kể lại hàng trăm lần. Ngược lại anh cũng biết ngồi gật gù nghe tôi đọc thơ. Hồi đó tôi cũng đã biết tý tỏm làm thơ rồi. Nhưng chẳng bao giờ hó hé cho ai biết, sợ chúng cười. Chỉ với anh là tôi mới dám mạnh dạn đọc cho anh nghe. Có lần ngồi trên cồn hoang, dưới anh trăng man mát tỏa xuống đồng lúa rì rào, tôi đọc thơ cho anh nghe, rồi hỏi, hay không?, hay không?...anh gật gù, hay chớ, hay chớ...mi mần mà không hay, thì ai mần hay nữa. Tôi hỏi, hay răng?, hay răng?...Anh cười hì hì...cần ẻ chi biết răng là hay, mần được thơ là hay rồi... Có lẽ anh là đọc giả đầu tiên và cũng là đọc giả cuối cùng hiểu được thơ tôi: „Cần ẻ chi biết răng là hay, mần được là hay rồi“ (...hehehehe...)

Thân vậy, nhưng nhiều khi tôi và anh cũng có giận nhau. Tôi khá kiên nhẫn để ngồi nghe anh kể chuyện chiến đấu của anh. Nhưng cực ghét cái ý tưởng, là anh sẽ nhờ bạn bè đồng đội cũ chứng nhận chiến công của anh để xin lại cái chế độ thương binh. Tôi nói, anh đừng có mơ tưởng chuyện hão huyền, trong chiến tranh dưới mũi tên hòn đạn, cạnh kề bên cái chết, con người mới tỏ ra là vì nhau thôi, chứ thời bình, mạnh thằng nào, thằng nớ sống, ai mà quan tâm chứng nhận cho anh được làm thương binh. Những lúc đó anh đỏ mặt tía tai, sừng sộ quát tôi, mi chưa từng ở trong quân ngũ, thì mi đừng xúc phạm đến tình cảm của người chiến sĩ. Tôi nói, chiến sĩ cái cục cứt. Anh giận tôi.

 Có lần đang đọc thơ cho anh nghe, anh nói, số mi rồi khổ thôi út ạ, lãng mạn kiểu nớ, lấy chi mà đút vô miệng út ơi. Tôi nói, thơ là thơ, thơ là dành cho tâm hồn, chứ thơ đâu phải dành cho cái dạ dày. Anh nói, tâm hồn cái lỗ khu, đói rã họng ra thì có tâm hồn mần ẻ chi. Tôi giận anh.

 Tôi và anh như hai con ma đồng. Ban ngày thì chẳng thấy mặt đâu. Cứ về khuya thì lại vật vờ trên cồn hoang, cười nói, đùa giỡn với nhau suốt cả đêm.

 Tôi đi lặn cát, lặn sỏi dưới sông. Nhiều người quen biết, nhờ lặn dùm đò cát, đò sạn, rồi biếu lại nắm xôi, cút rượu. Xôi thì tôi ăn, còn rượu thì tôi không uống được, tôi để dành, đêm mang ra cho anh. Bình thường, thì anh vui vẻ cười nói, bất cần đời, coi trời bằng vung. Nhưng khi rượu vào thì anh lại ngồi thở dài và khóc. Những khi ấy, anh hay gọi tên đồng đội và khóc hu hu như trẻ con. Anh hay nói, tau có què có cụt, thì vẫn còn có cái mạng, dù đói rách, tàn phế, vẫn còn có vợ có con, còn tụi bay, Lê ơi, Hiếu ơi, Thành ơi...tụi bay, giờ nằm dưới gò cát Triệu Lăng, dưới đáy sông Thạch Hãn..., có lạnh lắm không, có ai thắp cho tụi bay nắm nhang không...hu..hu...

 Lần khác thì anh đi ăn giỗ, để dành nắm xôi và vài miếng thịt phay mang ra cho tôi. Tôi bày xôi thịt ra, bảo anh cùng ăn. Anh vỗ bụng bành bạch bảo, mi ăn đi, tau mần một bụng căng rồi nì. Tôi ăn, anh ngồi nhìn, nuốt nước miếng ừng ực. Tôi giả vờ no, không ăn nữa, nhường lại cho anh. Lúc đó anh mới ngấu nghiến ăn, như chưa từng biết xôi, biết thịt phay là gì. Những lúc đó, cổ tôi nghèn nghẹn, mắt tôi cay cay... Tôi vỗ vỗ vai anh, có những hạt xôi, những miếng thịt, mà cả một đời người cũng không tận hưởng hết được hương vị ngầy ngậy của nó, là những miếng xôi, miếng thịt này đây. Anh gật gù, mi lại mần thơ à....

 Rồi một ngày đầu thu năm đó, trên cồn hoang giữa cánh đồng, nơi có ụ pháo thời chiến tranh để lại. Chỉ còn lại tôi với nỗi đau xé ruột. Anh Lấu chết rồi. Thủy Thần đã chết đuối trên dòng sông vào mùa mưa lũ.

 Dòng Kiến Giang vốn hiền hòa êm dịu. Nhưng những khi lũ tràn về thì lại cuồn cuộn rất hung dữ. Dòng nước bạc từ dãy Trường Sơn ào đổ xuống, mang theo những mảng cành cây khô, rều, rác..lao vùn vụt về xuôi. Lúc đó vợ anh đang con có bầu con Chưng. Anh sợ vợ nằm nơi vào mùa đông giá buốt, không có củi sưởi, nên lao thuyền nan ra giữa dòng nước bạc vớt cành khô. Một khúc gỗ lớn lao vào thuyền anh. Thuyền lật và anh cũng chìm theo dòng nước cuộn xoáy. Người ta thấy anh chới với giữa dòng bão lũ, nhưng không thể nào cứu anh kịp.

 Khi nước rút, cũng chẳng thể nào tìm được xác anh. Có lẽ dòng nước đã đưa anh về với biển Mẹ bao la. Chị Diếc, mang bụng bầu, dắt thằng Đô mới chập chững biết đi, ra bờ sông ngồi khóc mấy ngày mấy đêm. Tôi đứng bên này sông, nhìn sang lòng quặn thắt từng khúc ruột. Đêm đó tôi ra cồn hoang, đắp một mô đất, cắm mấy que nhang, rồi đứng nghiêm, dơ tay chào theo điều lệnh quân đội, báo cáo đồng chí thương binh, đại úy, đại đội trưởng đại đội ba, tiểu đoàn bốn, trung đoàn anh cả đỏ hai mươi bảy Triệu Hải, anh hùng lực lượng vũ trang quân đội nhân dân Việt Nam, tôi có mặt, chúc đồng chí Thương Binh anh hùng về với đất mẹ và an giấc ngàn thu.

 Trong chiến tranh, anh, dũng cảm kiên cường vì đồng đội. Lúc thời bình, anh vì đồng đội mà bị tàn phế. Lúc trở thành dặt dẹo như con ma đồng, anh cũng chỉ nghĩ về đồng đội. Nhưng lúc anh về với đất, về với nước, chỉ có tôi, một con ma đồng khác gọi anh là đồng chí.....

 Rồi cuối mùa thu năm đó, tôi cũng biệt xứ ra đi, biền biệt cho đến bây giờ, khi gặp được con Chung trên nước Đức. Tôi mới biết thêm về tình hình thằng Đô và chị Diếc. Chị Diếc vẫn còn sống, vẫn làm nghề chằm nón ở làng Qui Hậu. Sau ngày anh Lấu chết, chị đẻ con Chưng, bây giờ đổi thành tên Chung. Thằng Đô, lớn lên học hết lớp chín thì bỏ học, về làm đồng giúp mẹ nuôi con Chung ăn học. Sau đó đi nghĩa vụ quân sự, vào binh chủng Hải Quân.

 Hai năm trước thằng Đô được phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang, nhờ thành tích bám đảo, bảo vệ biển trời của Tổ Quốc. Vừa rồi, lại nghe con Chung nói, thằng Đô bị kỷ luật, tước mất danh hiệu anh hùng, vì không tuân lệnh cấp trên, chỉ huy tàu mình đụng độ với tàu Trung Quốc. Và bị chuyển lên làm lính biên phòng trên Lao Bảo.

Đúng vậy, tôi lo lắng cho thằng Đô, vì tôi sợ lịch sử lại lặp lại sự tích anh hùng thời cận chiến như cha nó.

15.11.12

Thursday, November 29, 2012

NGÀY GIỖ MẸ - LINH BẢO

Nordlingen ngày...

Cháu thân mến,

Từ hôm cháu về thăm đến nay, chú cứ nghĩ về cháu mãị Chú biết cháu thích tự do và vẫn còn giận mẹ cháu lắm, nên không chịu về nhà. Nhưng dù sao, chú cũng xin cháu nghĩ lạị Chuyện cũ qua đã lâu rồị Vợ cháu đã bỏ cháu, nhưng mẹ cháu hãy còn sống, ngày đêm trông mong cháụ Dòng họ nhà ta hiện nay chỉ còn một mình cháụ Xưởng làm đàn nổi tiếng nhất nước Đức của chúng ta, từ ngày chú Hai mất đi, vẫn đóng cửa cho đ! ến naỵ Nếu cháu không về trông nom, thì sự nghiệp đã bốn đời danh tiếng của dòng họ ta sẽ tiêu tan mất cả.

Xin cháu hãy suy nghĩ kỷ trước khi trả lờị

Rất mong tin cháụ

CHÚ BA

Vẹt đọc đi đọc lại bức thư của chú hắn đến hàng chục lần. Hắn không biết giải quyết cách nàọ Nhánh dòng họ Drexel nhà hắn chỉ còn có một mình hắn là tên tráng đinh độc nhất: hắn có bổn phận phải cưới vợ, sinh con, trông nom xưởng làm đàn của cha hắn, nhưng cuộc sống danh giá và bó buộc theo nền nếp ở quê hương làm hắn thấy ngại ngùng.

Hắn còn nhớ thuở bé, mỗi lần theo ông hắn ra quán cà phê, gặp người trong làng bao giờ họ cũng ngả mũ kính cẩn chào ông hắn và hỏi:

- Cậu bé năm nay lên mấỷ

Ông hắn cất ống điếu đang ngậm, đằng hắng lấy giọng, hất hàm hỏi hắn:

- Kìa cháu, bác ấy hỏi chaú lên mấỷ

Hắn ưỡn ngực trả lời rất kiêu hãnh:

- Cháu lên năm.

Ông hắn nhắc lại rất vênh vang:

- Ông nghe rõ chưả Cháu tôi năm nay lên năm, và vẫn còn độc thân!

Mỗi lúc nghe ông nói thế là hắn thấy tức giận và xấu hổ vô cùng.

Hắn giận ông hắn lúc nào cũng đem cái sự " còn độc thân" của hắn nói tung ra cho thiên hạ biết. Thật nhục nhã!

Nhưng đến bây giờ, trái lại, đã hơn ba mươi tuổi rồi, hắn rất hãnh diện vì vẫn còn được độc thân.

Quãng đời thơ ấu của hắn rất đen tốị Hắn mồ côi cha lúc mới ba tuổi, mẹ hắn một mình nuôi hắn. Cuộc sống cô đơn của một người đàn bà góa bao giờ cũng tràn đầy khó khăn, và mỗi khi gặp một chuyện bất bình gì là mẹ hắn trút tất cả những nỗi đau khổ bực tức lên đầu đứa con mồ côị Hắn không quên được những trận đòn chí tử bằng cán chổi mây to bằng bắp taỵ Mẹ hắn đánh hắn chỉ vì hắn nghịch một phần, mà vì tức giận chuyện khác nhiề! u hơn. Thỉnh thoảng, hắn phàn nàn với mấy thằng bạn:

- Tao không biết tao có phải là con của cha mẹ tao không. Có khi tao tưởng tao là con của mụ ăn mày hay của ông quét đường, đổ rác nào đó, mà mẹ tao đã xin về nuôi!

Năm 17 tuổi, hắn bỏ nhà, bỏ trường đi Pháp. Hắn học nghề giới

thiệu những món hàng buôn sỉ và sống bấp bênh với nghề đó cho đến bây giờ. Sáu năm trước, hắn cưới vợ Á Đông. Năm thứ nhất, hai người rất hạnh phúc. Năm thứ hai, bắt đầu chịu đựng. Năm thứ ba, vợ hắn khinh ghét hắn, và hai người, không biết vô tình hay cố ý, đều như cố tình hành hạ nhaụ Năm thứ tư, gia đình thành ra địa ngục trần gian, nếu không xa nhau thì cả hai sẽ điên luôn.

Thực ra hắn rất yêu vợ, nói là mê vợ thì đúng hơn. Những ngày tháng đầu, lúc mới xa nhau, hắn đau khổ đến nỗi lúc nào cũng có thể khóc được. Nhưng dần dần, hắn làm cho tình yêu biến thành lòng căm hờn. Từ đấy, hắn oán giận vợ cũng như oán giận mẹ, nên n thấy đời không còn gì vui nữạ

Cuộc sống của hắn rất khô khan. Càng ngày hắn càng cố tỏ cho mọi người biết hắn là người tâm hồn cứng rắn, chai đá. Hắn muốn bạn hắn biết tình cảm trong lòng hắn đã chết hẳn rồị Đời hắn chỉ còn một con khỉ hắn mua sau ngày vợ bỏ là nguồn vui, nguồn sống độc nhất mà thôị

Tháng trước, hắn về thăm làng cũ, gặp chú hắn, rồi lại về Paris. Hắn không muốn xa Paris, vì đó là đất dung dưỡng nghệ sĩ. Tuy hắn không phải là nghệ sĩ, nhưng tự nhận có tâm hồn nghệ sĩ. Hắn thích sống nghèo nhưng tự do, hơn là về quê làm ông chủ xưởng sản xuất đàn, giàu có nhưng bị bó buộc.

Tuổi trẻ là tuổi bất cần đời đã quạ Bây giờ hắn thấy có lẽ cái xưởng làm đàn cũng khá quan trọng, cần phải giải quyết một cách đứng đắn. Hắn nghĩ rằng nếu không ghét mẹ, thì trở về cũng được. Nhưng vấn đề là làm sao có thể gột rửa lòng căm hờn từ thuở bé, cái oán giận mà hắn và vợ hắn mỗi ngày mỗi bồi dưỡng thêm lên, đến mọc rễ tr! ong lòng hắn rồị

Hắn có mỗi một con khỉ là thân nhất, thì lại chỉ chuyện trò một chiều, không thể trao đổi ý kiến với khỉ được. Bỗng hắn chợt nhớ đến mấy người bạn Việt Nam. Hắn nghĩ phải tìm gặp mấy người này may ra ... bọn họ thường thường có những ý tưởng rất động trời, mà không phải là không có lý. Nhân tiện, hắn cũng sẽ hỏi xem họ có biết ở đâu tiêu thụ cho hắn được một số bát đũa vừa mới nhận được không. Hắn vội vàng mặc áo đi ngay để tránh giờ ăn.

Vẹt gõ cửa phòng Minh. Hắn rất ngạc nhiên thấy người ra mở cửa là một thanh niên Pháp. Hắn tự giới thiệu:

- Tôi là Vẹt, đến hỏi thăm cô Minh có tí việc.

- Còn tôi là Đinh Văn Bị Mời anh vàọ

- Các cô ấy đâủ

- Suỵt, nói khẽ chứ. Ở cả bên phòng cậu em. Họ đang cúng Hôm nay là ngày giỗ bà mẹ.

Vẹt nhún vai, bĩu môi:

- Hừ, mẹ chết rồi, còn khéo lôi thôi! Cúng với kính gì. Mẹ tôi còn sống sờ sờ ra đấy, tôi còn chả thèm thăm.

Bi phản đối:

- Mỗi người một tính, mỗi nước mỗi phong tục chứ! Tôi học tiếng Việt với cô Minh, biết được nhiều phong tục lắm và tôi cho là những phong tục ấy rất đáng kính trọng.

- Anh học tiếng Việt mấy tháng rồỉ Học được những gì? Học để làm gì?

- Tôi quen cô Minh đã lâu, nhưng mới có ý định học cách đây mấy tháng. Học để hiểu một dân tộc. Tôi dám cam đoan hai năm nữa tôi sẽ đọc truyện Kiều vanh vách. Tên tôi cũng do các cô ấy đặt. Lấy họ Đinh, theo dòng dõi Đinh Tiên Hoàng. Bi là bia, hay là từ bị

- Còn tôi, vï tôi bảo tôi hay nói bá xàm bá láp , tán giỏi mà không có lòng thành , tính lại hay cau có gắt gỏng, độc tài, đủ nết xấu, nên đặt cho tôi tên Vẹt. Cô ấy là Bà Chằng mà tôi chiều chuộng như Bà Chúạ Tôi hỏi thực anh nhé. Anh có yêu cô ấy không?

- Hiện tại tôi chỉ thấy quí mến, nhưng có lẽ tình yêu còn ở trong tiềm thức, chưa lộ ra đấy thôị Tôi cũng hơi sợ , vì các bạn tôi nói đàn bà Á Đông có một sức quyết rũ rất huyền bí. Đàn ông Âu châu mắc vào là tâm hồn bị phong tỏa ngaỵ

Vẹt xua tay:

- Tôi khuyên anh chớ có dại xông vào mà chết ! Tôi là nguời đã từng kinh nghiệm. Thuốc độc đấy chứ không phải vừa đâụ Trông họ hiền lành, dịu dàng, ngọt ngào, chiều chuộng thế nhưng rất nguy hiểm, vì một khi mình yêu họ rồi thì mình sẽ không thể nào yêu một người đàn bà Âu Châu nào nữa!

Bi bỗng ra dấu cho Vẹt im lặng. Hai người lắng tai nghe, hình như có tiếng nấc ở phòng bên đưa sang. Vẹt rón rén đến bên cạnh màn nhìn trộm. Hắn thấy trong phòng không bật đèn, chỉ có ánh sáng của ngọn nến và ba cây hương đang cháy trên cái bàn thờ nhỏ đóng vào vách. Cậu em trai ngồi cạnh bàn thờ, hai tay ôm đầu như đang suy nghĩ. Hai cô chị, tóc xõa dài trên vai, mỗi người gục đầu vào một phía vách. Có lẽ họ đang khóc, vì vai cứ rung lên từng hồi theo tiếng nấc đã cố nén rất nhỏ.

Vẹt tưởng như đấy là những cô bé bị phạt phải đứng quay mặt vào tường, và các cô bé vừa khóc vừa oán giận, như hắn lúc còn bé. Nhưng sự thực trái lại, các cô đang buồn khóc mẹ. Hắn không tin là trên đời lại có thể có những người con thương yêu mẹ đến như thế. Biết đâu các cô chả khóc vì một lý do nào khác, khóc cho chính mình! Chẳng hạn như khóc đời đen bạc, khóc lòng người tráo trở, khóc tình duyên ngang trái, khóc buôn thua bán lỗ hay khóc nước non. . . khóc dân tộc. . . Ôi trời, còn bao nhiêu là chuyện đáng khóc!

Hắn nhún vai, lại đến ngồi cạnh Bi, lấy thuốc lá ra hút.

- Các cô ấy có một tình thương yêu nhau mãnh liệt lắm. Và cũng chính vì điểm ấy mà tôi quí mến họ.

Vẹt nói giọng nghi ngờ:

- Tôi chỉ ngạc nhiên là tại sao trên đời lại có người thương mẹ đến như thế. Tôi ghét mẹ tôi lắm! Lúc bé, mẹ tôi đánh đập tôị Lớn lên, tôi cưới vợ, mẹ tôi không nhìn, nhắn bảo tôi rằng nếu cưới một người đàn bà ngoại quốc thì không được bước chân vào nhà bà. Vì thế, tôi đã thề rằng suốt đời tôi sẽ không gặp mẹ tôi nữa!

- Bà cụ còn sống không?

- ù Còn, và vẫn mạnh khỏẹ

- Thế chị ấy đâủ

Vẹt nhún vai, không trả lờị Hắn lại đến cạnh màn nhìn trộm. Trong phòng, vẫn cảnh tượng lúc nãy, chỉ thấy cây nến và mấy nén hương ngắn hơn. Nhưng giờ phút này hắn không còn ngạo nghễ nhạo báng như lúc đầụ Nỗi uất hận trong lòng dịu bớt , và hình như hắn cũng muốn khóc. Vẹt lại châm thuốc! lá hút để đè nén những cảm xúc hắn cho là mềm yếu như đàn bà. Mặc dầu cố gắng xua đuổi hết sức, mà mắt hắn nhìn đâu cũng chỉ thấy hình ảnh hai cô gái xõa tóc, gục đầu vào tường, vai rung rung vì những cơn nấc không thành tiếng.

Hiện tại đối với hắn thực phũ phàng. Hắn chợt thấy trên đời hình như có một cái gì thiêng liêng thực, có tình quyến thuộc, có tình thương yêu mà xưa nay hắn chưa thấy, chưa biết. Hắn ngờ có lẽ vì hắn chưa từng cho đúng mức nên không nhận được đúng mức chăng? Có một lần, hắn đã cho đúng mức, cho tất cả, thì lại cho! không đúng người, đúng chỗ. Về sau, hắn chỉ đòi hỏi, đòi thực nhiều, thực cao, mà không cho ai bao giờ. Tâm hồn hắn đen tối gần như không có một tia ánh sáng nào của tình yêu có thể lọt vào được .

Một lát sau, ba chị em bước rạ Hai cô chị mặt nghiêm trang buồn buồn, mắt đen ngời long lanh ướt.

Minh gượng cười nói:

- Tôi rất sung sướng có các bạn đến trong dịp giỗ mẹ chúng tôị Phong tục nước tôi, đó là ngày kỹ niệm để tưởng nhớ đến công ơn cha mẹ và hội họp bà con để tăng thêm tình thân mật.

Cậu em tiếp thêm:

- ù Ba chị em sống chung, ngày nào cũng hội họp, đủ thân mật lắm, vì thế hôm nay chuyên để tưởng nhớ! Lệ chúng tôi, ngày thường cấm buồn, cấm khóc. Hôm nay nhân dịp giỗ mẹ, các chị tôi được phép, nên khóc một trận thả giàn để đền bù.

Quế dọn bàn, bày các thức vừa cúng rạ Minh lại giảng cho

hai nguời bạn ngoại quốc:

- Trong nước, chúng tôi không cúng như thế này đâu! Nào là xôi chè, hoa quả, bánh trái đặc biệt ngon vô cùng. Đây vì chúng tôi ở ngoại quốc, không có những thứ ấy, nên chỉ cần lòng thành, có gì cúng nấỵ Tối nay chúng tôi ăn phở, thành ra cúng phở.

Cậu em lại chế:

- Phở tái của chúng tôi là một món ăn đặc biệt và ngon ghê gớm, chứ không phải như thế này đâu! Chị tôi gọi là phở tái, kỳ thực đấy chỉ là mì ngựa!

Cậu quay lại nhìn chị:

- ù Có phải thế không chị? Tiền chợ của sinh viên nghèo mà! Bánh phở, chị thay bằng mì khô luộc, còn thịt bò đổi ra thịt ngựa cho rẻ. Không nói rõ, nhỡ các anh ấy tưởng món phở tái quốc hồn quốc túy của chúng mình như thế này, thì thực nhục " quốc thể".

Quế nói:

- Hôm nay ở nước nhà chắc các anh các chị họp đông vui lắm. Nhưng không biết có ai nhớ đến chúng mình không?

- ù Sao lại không? Nhớ ghê lắm chứ lại! Không nhớ chúng mình thì nhớ aỉ

Minh nói xong quay sang nhìn chị:

- Để em nói dốc cho chúng nó khiếp. Mình dại gì cho chúng nó biết chẳng ai nhớ, ai thương, ai nghĩ đến mình cả. À, các chị cũng liệu đấy: nếu đến cuối tháng này, chúng mình vẫn không " Cùng tắc biến, biến tắc thông" nữa, thì tháng sau một chị phải nghỉ học. Chị tìm việc gì làm, để sang năm giỗ mẹ, có tiền làm phở tái .

- Mì ngựa chứ chị!

- ù Ừ, gì cũng được, miễn là tiền của chúng mình thực chứ đừng như hôm naỵ

- Hôm nay làm saỏ Sang thế này còn đòi gì nữạ Mẹ ngày xưa thích lê, thì có lê này, ba có thuốc lá này, lại còn bánh ngọt, chè thơm. . .

- Ừ, nhưng mà phải "tổng động viên" tất cả bạn bè mới được ngần ấỵ Ta đi làm " ráp" đến mấy nhà, mới " tịch thu" đủ số cần thiết.

- Lạ quá, bạn chúng mình, những người nghèo thì thực có lòng, còn đứa nào giầu thì rởm đời, khinh người, dễ ghét một cách kỳ lạ. Nhất là ích kỷ và hà tiện thì không để đâu cho hết!

- Chuyện! Công lệ như thế rồi!

Minh quay sang Bi và Vẹt nói:

- ù Xin lỗi hai anh nhé. Chúng tôi vừa bàn định về giỗ mẹ năm sau sẽ làm những món ăn rất đặc biệt của quê hương. Còn anh Vẹt vừa về Đức thăm nhà, có chuyện gì hay kể cho chúng tôi nghe vớị

Vẹt vui vẻ nói:

- ù Tôi về thăm lại những kỷ niệm cũ, chứ có gì hay đâu! Trước hết, tôi thăm cây " Noa" dại tôi vẫn hay trèo chơi lúc bé, gần cạnh xưởng làm đàn. Tôi thương nó ghê lắm. Nó cao bằng ba tầng lầu, bóng mát tỏa ra rất xạ Nhưng rủi quá, bị người ta chặt mất rồị Hôm ấy, tôi đứng ở gốc cây, buồn đến chết lặng cả ngườị

- ù Ngoài ra, anh còn thăm ai nữả

- Tôi đến nghĩa địa thăm mộ cha tôị Và tôi thấy ngay bên cạnh, có một nấm mộ mới, hoa còn tươi, đắp đất chứ chưa xây đá. Tôi lại đứng chết lặng ở đấy gần một tiếng đồng hồ.

- Mẹ anh phải không?

Vẹt lắc đầu:

- ù Không, chú tôị Thế mới đáng tiếc. Chú tôi mới chết có mười lăm ngày thôị Tôi đọc trên những tấm băng giấy cột trên vòng hoa nên biết được như thế. Trời ơi! Nếu tôi về sớm mười lăm ngày, thì đã gặp chú tôi rồi! Ngày xưa, chú thương tôi nhất, và cả gia đình, tôi cũng chỉ thương một mình chú ấy thôi!

Vẹt ngừng một lúc, kể tiếp:

- Tôi vốn định không thăm ai cả, nhưng vì chú Hai mới mất, nên tôi đến tiệm bán đàn của chú Ba để thăm chú ấỵ Đến nơi, tôi giả vờ hỏi mua đĩa hát, và hỏi tin tức chú Hai chết ra saọ Thím tôi kể hôm an táng, theo lệ thường Cha nhà thờ làm lễ bao giờ cũng chỉ tán dương những điều hay, nết tốt của người chết chứ không nói xấu, thế mà vì gia đình chú tôi không trả! tiền nhiều để làm lễ sang trọng nhất, nên hôm ấy họ đã kể xấu chú tôi, nào là không đi nhà thờ, không xưng tội, suốt ngày uống rượụ v.v.. . đủ thứ. Mọi người, ai cũng tức giận nhưng không dám nói gì. Hừ, giá hôm ấy có tôi thì phải biết! Nghe xong tôi khóc nên chú Ba nhận ra tôị Chú mời tôi ở lại ăn cơm và bảo tôi giống ba tôi lúc xưa như tạc. Bây giờ tôi thấy yên tâm, vì biết chắc chắn tôi chính là con của ba tôi, chứ không phải mẹ tôi đã xin con ai về nuôi!

- ù Chú anh gặp anh chắc mừng lắm!

- ù Chú tôi rất mừng giữ tôi ở lại, nhưng tôi không chịụ Xong rồi, tôi đến thăm cái nhà thờ cổ. Cái nhà thờ sáu năm trước, một đêm mưa, bão tuyết rất lớn, tôi và Sương đã vào nấp trong ấỵ Sương khó tính vô cùng. Biết tôi rất mệt mỏi, cũng cứ bắt tôi phải dịch cả một tấm bảng viết lịch sử nhà thờ cho Sương nghẹ Thế kỷ thứ mười một làm gì, mười hai làm gì, mười ba sửa chỗ nàọ . . chán vô cùng!

- Cô ấy ham học hỏị

- ù Không phảị Sương muốn hành hạ tôi thì đúng hơn. Không có một việc gì làm khổ tôi được mà Sương không làm, từ việc lớn cho đến việc nhỏ.

- Anh không thăm mẹ anh?

- ù Có chứ. Tôi đến thăm căn nhà chúng tôi ở hồi xưạ Những sợi giây thép gai tôi chăng vòng theo vách tường vẫn còn nguyên, mấy luống hồng leo tuy đã già nhưng vẫn còn sống. Tôi bấm ba lần vào cái chuông điện ngày xưa chính tay tôi bắt vào cửa vườn. Tôi nghe tiếng chân mẹ tôi đi trên gác, ánh đèn ở cửa sổ phòng bà bật sáng và nghe tiếng bà hỏi vọng qua cửa sổ " Wer lautet? " (ai bấm chuông?), xong tôi chạy mất!

- Anh không vàỏ

Không. Sáu năm trước tôi đã tuyên bố không gặp mẹ tôi nữa rồi mà! Ai bảo bà ấy không nhìn nhận vợ tôỉ Nhưng dù sao, tôi cũng đã nghe tiếng mẹ tôi nói, biết mẹ tôi còn khỏe mạnh, thế là đủ rồị Điều rủi ro nhất của tôi là cây " Noa" dại của tôi bị chặt, và chú tôi chết mất.

- -Tôi cho là anh vẫn còn may mắn vô cùng. Chúng tôi còn rủi hơn anh nhiềụ

- Tại saỏ

- Chúng tôi rất yêu mẹ, nhưng không được sống gần để làm mẹ vui, mẹ sung sướng. Mỗi khi nghĩ đến ngày về nước không còn mẹ nữa, là chúng tôi khổ đến khóc ngay được. Đối với tôi, chồng, vợ hay con, nếu rủi mất đi, vẫn có thể tìm lại rất dễ dàng, và muốn bao nhiêu cũng cóù, nhưng còn mẹ, suốt đời chỉ có thể có được một mẹ mà thôi!

Vẹt mở to mắt nhìn hai chị em Minh. Hắn vừa kinh ngạc vừa

sửng sờ. Hắn chưa từng nghe ai nói một câu kỳ quái như thế bao giờ cả!

- Nếu lúc anh trở về, trông thấy mộ mẹ nằm cạnh mộ cha, đất mới đắp còn mùi nồng, mới thật là rủi! Nhất là nếu anh chỉ về trễ có mười lăm ngày thôi!

Vẹt lặng cả người:

- ù Điều ấy không bao giờ tôi nghĩ đến. Mẹ tôi khỏe mạnh lắm. Tôi không tin là mẹ tôi có thế chết sớm được!.

- Trước kia chúng tôi cũng nghĩ thế. Tôi cũng không tin là mẹ tôi có thể chết được! Tôi tưởng mẹ tôi phải sống mãi mãi để nhìn thấy chúng tôi thành công. Thế mà tôi đã phải làm giỗ mẹ mấy lần rồi! Thật vô lý. Cho đến bây giờ, sự thực đã sờ sờ ra như thế, lắm lúc tôi vẫn còn chưa chịu tin là tôi đã không còn mẹ ở trên đời nữa!

Vẹt hai mắt mở to, đăm đăm nhìn vào quãng không, mồm hắn lẩm bẩm:

- ù Wer lautet? Wer lautet? Wer lautet?

Hắn đi lại trong phòng mấy bước và bỗng đứng dừng lại nói:

- Tôi xin cám ơn anh bạn và hai cô đã mời ở lại ăn phở, nhưng tôi phải về ngay vì có việc bận lắm. Tôi phải cho xe vào xưởng soát lại máy và thay dầu chuẩn bị đi đường trường . Tương lai sẽ còn có dịp gặp lạị

Hắn bắt tay mọi người, vội vàng ra về, mồm vẫn lẩm bẩm " Wer lautet? Wer lautet? ". Hắn muốn về ngay, vì mục đích đến tìm chị em Minh không phải để ăn phở tái hay mì ngựa, mà để hòi ý kiến một việc, mà bây giờ hắn thấy không cần hỏi nữa!

ĐÔNG SƯƠNG KÝ - LINH BẢO

Đông Sương Ký

Bốn người đàn bà ngồi tì tay bên cửa sổ nhìn nhau, tuy chẳng có gì đáng nhìn cả. Họ không ghét nhau mà nhìn với ánh mắt hằn học, cũng không có nhiều cảm tình để nhìn trìu mến, âu yếm như muốn ghi nhận lấy hình ảnh thân yêu. Họ nhìn nhau lơ đãng dửng dưng, nhìn mà không thấy. Bốn người đàn bà độc thân thuê bốn căn gác đối diện này lặng lẽ sống như những bóng ma. Ngõ hẻm đưa vào đến đây là bế tắc. Giữa sân đủ rộng để xe có thể quay đầu ra dễ dàng. Mỗi cô có một số bạn đếm được trên đầu ngón tay và ít đi chơi đâu, nên nhìn cánh cửa sổ đóng mở thất thường, cũng khó biết họ có nhà hay đi vắng. Vân ở căn gác số 1, Trân căn số 3, Lài căn số 2, và Lý số 4. AA

Chiều ba mươi , ai cũng lo sửa soạn ăn Tết, lo tô điểm trang hoàng nhà cửa hay săn sóc con cái và chuẩn bị đón ông bà. Các cô ngồi tì tay bên cửa, mơ mộng những thứ mọi người có mà các cô không có. Họ tránh bước sang nhà nhau, chỉ muốn đứng xa xa " chiêm ngưỡng dung nhan" một cách thoải mái . Còn gì khó chịu hơn phải nhìn thấy từng vết nhăn sắp thành hình của người bạn gái cùng trang lứa. Nhìn họ giống như soi gương: trên mặt mình cũng đang có những đường nét mơ hồ sắp thành hình sâu đậm như thế. Còn nói chuyện với nhau thì chán lắm. Trời không nắng không mưa, không nóng cũng không lạnh. Chuyện thế giới, họ không thiết tha. Nói một lúc, động đến chuyện lòng thêm phiền, vì không có gì để mà "Tốt khoe ra . . ." cả. Ai cũng muốn giấu cái vẻ mùa thu của cuộc đời . Họ nhìn nhau xa xa, thấy mầu sắc và dáng điệu vẫn còn phong độ, thì yên tâm hơn một chút. Nhưng cuộc sống như thế, cuối năm tính sổ, vẫn không hề hiện ra một điểm son nào. Nhìn đâu cũng vẫn thấy trống rỗng vô nghĩa, và mọi vật đều như thiếu linh hồn.

Nhà cô nào cũng có bánh mứt, hoa quả, nhưng những thức ấy cũng không thể tạo cho họ cái Tết. Hay có chăng, chỉ để dối mình. Cái mùi vị Tết ở ngoài không thấm nhuần đến bề sâu làm họ bâng khuâng. Họ gặp mắt nhau, khẽ nhếch một nụ cười xã giao rất gượng, rồi lại nhìn lên trời. Cái sân xe đúc xi măng không có một gốc cây để vươn cành lá lên không trung, thì bên dưới làm gì có bóng mát. Trời chỉ là một mảnh con con lọt vào giữa sân xe, và mây không hề lảng vảng đến gần khung trời này. Họ đành lại phải nhìn ngay mặt nhau. Vân thấy cô Lài, nhà đối diện số 2 hôm nay hình như già thêm một chút. Nàng nghĩ thầm:

- Quái lạ,không lẽ biên giới của năm này sang năm kia đúng là chiều ba mươi sao chứ! Không lẽ người ta chuẩn bị để sau giao thừa là già một cái rụp? Khổ đến thế thì thôi!

Nàng chú ý nhìn Lài, thấy giá cô đừng buộc tóc đuôi ngựa theo kiểu

bé con kia, trông còn thuận mắt hơn. Thân hình Lài thon nhỏ nhưng nhiều xương ít thịt. Cô làm ra vẻ ngây thơ nhí nhảnh như mới mười hai. Lối ăn mặc của cô giống bọn trẻ lên mười Âu Mỹ, nhưng trong ánh mắt cô, người ta đọc thấy cái mơ mộng bâng khuâng của cô gái hai mươi. Nếu muốn biết tuổi thật của cô, có lẽ phải cộng tất cả những thứ ấy lại thì vừa đúng.

Lài sống một mình với con chó bông Nhật Bản nhỏ lông ngắn. Đi chơi đâu nàng cũng bế nó đi theo. Vân không biết Lài làm gì, vì không thấy cô bận rộn hay quan tâm đến việc gì hết. Mỗi ngày, cô gởi tiền nhờ chị Tư bếp của cô Trân mua giùm thức ăn. Cô tự nấu lấy xong cùng ăn với con chó. Thầy một cỗ, tớ một cỗ. Hai bóng đen in lên tường mỗi tối, như một bức tranh linh động và cũng không bao giờ thay đổi. Có lúc Vân tò mò muốn biết Lài làm gì để sống nhưng không dám hỏi. Nàng sợ phiền lòng cô bạn gái ở bên Mái Tây.

Nhưng tình cờ Vân bỗng tìm ra sự thực. Hôm ấy, nàng ngồi bên cửa sổ ngắm " cảnh" và đang buồn vì không có gì để ngắm. Hai cửa sổ nhà Mái Tây vẫn đóng im ỉm. Cô Lý đi vắng từ trưa chưa về. Lài, chắc cũng không có nhà. Vân lơ đãng nhìn vào khoảng không. Ai trông thấy vẻ mặt Vân lúc đó chắc tưởng Vân suy nghĩ chuyện gì quan trọng lắm, kỳ thực đầu óc nàng trống rỗng, lâng lâng như đã xuất hồn chu du một non Tiên nào.

Vân đang mơ màng, bỗng thấy một người đàn ông từ trên cầu thang chung của Lài và Lý bước xuống. Người ông ta trông rất bệ vệ, mồm ngậm một điếu xì gà to tướng, mặt mày có vẻ phè phỡn. Oâng lên chiếc xe màu nâu và lái ra khỏi sân. Chiếc xe nâu ấy, cách vài hôm lại ghé đây một lần. Thì ra cô bạn Mái Tây là món " quốc cấm" của chủ nhân chiếc xe nâu.

Cửa sổ nhà cô Lài hé mở, cô nhìn xuống đường định mở rộng, nhưng chợt thấy Vân đang nhìn sang, cô vội khép lại.

Vân tự bảo thầm:

- À, người ta lắm lúc chỉ nên " thông cảm" mà thôi! Hiểu nhau vừa vừa là đủ rồi, một vài bí mật cần phải được tôn trọng.

Chiều hôm nay, ba mươi Tết, chiếc xe nâu ấy cũng đã đến một

lúc. Bức rèm trúc buông xuống cửa sổ, rung rinh theo làn gió nhẹ. nhưng nó được vén lên rất chóng vì chủ nhân chiếc xe nâu đã phải vội vàng ra đi. Bộ mặt ông vẫn giữ vẻ phè phỡn, môi vẫn dính chặt điếu xì gà như thường lệ.

Vân đoán chắc Người phải về vội, vì sợ "Sư tử" rống. Người còn bao nhiêu là công việc phải làm ở nhà. Nào là tiếp khách, trang hoàng nhà cửa, hay đi phố mua sắm vào giờ phút cuối cùng. Người có thể quên hết những gì đã xảy ra ở cái ngõ hẽm này, không nhớ đến cô Lài bên cửa sổ bịn rịn nhìn theo . . ., mà Người cũng có thể làm tất cả những công việc nhà, nhưng tâm hồn để cả nơi đây. Tội nghiệp cô Lài, tối nay lại cũng như mọi tối, chỉ có con chó Nhật cúng giao thừa và ăn Tết với cô thôi.

Bên cạnh gác cô Lài là giang sơn của cô Lý. Cô đóng cửa ban ngày để ngủ và đi chơi, đóng cửa ban đêm để đi làm. Vì thế, nếu người nào đến tìm cô cũng chỉ tần ngần trước cửa một lúc, mân mê cái khóa cửa, nhìn quanh nhìn quẩn rồi ra về. Cô Lý là ca sĩ. Ban đầu cô hát với tất cả đam mê, lòng cô rung cảm say sưa với tình ý của bài hát. Nhưng lần lần, cô thấy không thể khá được bèn theo làn sóng mới, đổi lối hát cho thích hợp . Từ đó, cô nổi tiếng mau chóng, lợi tức cao hơn; tuy cô chỉ nhún nhẩy , hò hét nhiều hơn hát. Lắm lúc chính cô cũng không biết là mình đang làm trò gì, bài không thuộc cô cứ cầm đại tờ giấy lên máy vi âm. Thính giả không cần cô phải diễn xuất, phải trình bày với tất cả tâm hồn, thì cần gì phải thuộc cơ chứ! Cô thấy ưỡn ẹo nhiều được nhiều tiền hơn, đỡ vất vả hơn, nhưng tâm hồn cũng trống rỗng hơn bao giờ hết!

Liền bên cạnh Vân là gác cô Trân, số 3. Cô này trẻ tuổi và xinh đẹp nhất. Nhà cô, ngoài con chó bông Nhật ra, còn có một chị bếp. Trước kia, cô là một vũ nữ danh tiếng, bạn bè rất đông. Nhưng từ ngày ông chủ một hãng tàu đem cô về đây " kim ốc tàng kiều", cô chịu sống cô đơn một cách rất ngoan ngoãn. Có lẽ con gái nhà lành nào cũng không ngoan bằng. Mỗi sáng cô dậy tập hát và học thêm tiếng Anh một mình. Trưa, cơm nước xong, cô ngủ cho đến chiều, thức dậy tắm, trang điểm xong thì chiếc xe màu da trời đến. Chủ nhân cao lớn, to béo, từ trên xe bước xuống, đóng cửa xe đánh sầm một tiếng, tay nắm xâu chìa khóa, lắc kêu reng rẻng, bước lên cầu thang. Hai phút sau, chị bếp cầm cái bát ra cửa, con chó Nhật lẽo đẽo theo sau. Chị Tư đi mua phở đem về nhà để lên bàn ăn, xong chị lại dẫn con chó ra đi: người ngẩng mặt nhìn trời, chó cúi đầu xuống đất tìm một mùi hơi quen thuộc.

Một giờ sau, Trân ra đứng tựa cửa sổ, lấy mắt tiễn chiếc xe mầu xanh da trời ra khỏi sân.

Vân đoán: chắc anh chàng này giấu cô bé ở đây, mỗi ngày ở sở ra sớm nửa giờ, về nhà " báo danh" muộn nửa giờ. Hai phương diện công tư đều không có gì trở ngại. Thế là anh chàng lợi được một giờ để đến đây thăm Trân, ăn một tô phở, hàn huyên mấy câu,trong khi mắt lấm lét nhìn đồng hồ. Lỡ hôm nào " câu chuyện" dài dòng một tí trễ giờ là anh chàng hốt hoảng chạy ra xe nhấn hết ga, phi một mạch về nhà " trình diện".

Chị Tư đi dạo xong, dắt chó về thì trời cũng vừa tối. Cơm nước xong, nếu buồn, Trân đem cả chị Tư đi xem xi nê, nhốt con chó trong phòng khóa cửa lại, mặc nó cào cửa tru tréo.

Trong đêm ba mươi Tết, hình như người ta dễ biến thành những kẻ mộng du. Bốn cô gái ngồi đối diện mà vẫn như không thấy nhau. Họ đang suy nghĩ gì nhiều, hay trí óc đã phiêu diêu nhập thiền.

Có tiếng người cười nói dưới sân, bốn cô cùng giật mình nhìn xuống, mong đấy là bạn mình, nhưng chỉ là bọn người nào đó đi lầm nhà, nhìn ngóng một lúc rồi trở ra ngay.

Cô Lý đã ăn mặc chỉnh tề đóng cửa đi làm. Còn lại Vân, Lài và Trân, lúc này cùng cúi xuống sân như muốn tìm một vết chân, hay đợi một kỳ tích hiện ra.

Trời đã hơi tối, ai cũng quay vào nhà lên đèn. Vân vặn bóng đèn nhỏ màu xanh nhạt cho căn phòng có vẻ huyền ảo, mở tập bài luận ra chấm. Sinh viên bất cứ tuổi nào cũng đúng với câu ví : "Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò". Toàn là các em nhỏ choai choai mà làm bài như phỏng vấn cô giáo. Bọn trẻ lắm lúc có những ý tưởng kỳ lạ, vài em săn sóc hỏi thăm cô ". . . Đã có chồng chưa được mấy con?". Ngay cả các bạn đồng nghiệp cũng có lắm người muốn vạch lá tìm sâu . . . , chuyện càng riêng tư, người ta càng muốn moi móc đem lên bàn mổ.

Đời sống" ngoại cảnh" của Vân thanh bạch không có gì bí ẩn. Vân là một cô giáo mới ở trong cái ngõ hẽm chỉ có 4 căn gác có 4 phụ nữ thuê này. Gần đây một số bạn bè muốn mở nhà giữ trẻ, rủ Vân chung vốn, chung sức. Chỉ làm việc mà không phải chấm bài. Nghe thực hấp dẫn dễ xiêu lòng lắm..

Đấy là " ngoại cảnh", còn phần " nội tâm" thì sao? Giả vờ mơ hồ nhưng thực ra Vân biết rõ ai đã làm cho Vân hoang mang! Cái hình ảnh ấy đến lần đầu, tràn ngập trong tim nàng, rồi xây dựng " thủ đô" ngay tại đấy, không chịu dời đi đâu nữa. Con người ấy, phong độ, học vấn, tư tưởng, dáng người, cách ăn nói, tất cả đều đúng điệu. Phần chàng cũng thế. Chàng biết chắc chắn Vân là người mình ao ước. Chàng tìm lại được mình thời trẻ trung, ngạc nhiên thấy có thể yêu say sưa mơ mộng như mối tình đầu của thuở ban đầu. Rõ ràng họ đã hẹn nhau từ kiếp trước. Chỉ không may là Nguyệt lão ngồi làm việc duới trăng mà không có cà phê, mệt mõi quá nên đã xe nhầm tơ! Tình chàng dù có thắm thiết đến thế nào, " minh châu" của người yêu cũng đến "Hệ tại Hồng la nhu" là cùng! Họ dừng lại ở một " vĩ tuyến" và lặng lẽ nhìn nhau. Chàng nghĩ:

- Mình không nên " vượt tuyến" xâm lấn vào cuộc đời nàng. Mình có đem lại được cho nàng chút hào quang nào đâu ! Đời mình như tem đã đóng dấu, không xài được nữa, may còn trái tim, nhưng chỉ có trái tim như thế đủ không? Đi đến đâu, mà để làm gì? Mình sẽ mỗi ngày đến ăn một " tô phở 5 giờ" như ông nhân tình cô láng giềng của nàng, rồi về nhà chăng? Nếu quả thực như thế thì . . Chao ơi! . địa ngục là đây chứ còn phải tìm đâu xa. . .

- Tình yêu của nàng phải được sưởi ấm dưới ánh mặt trời, không thể nào âm thầm như thế. Nàng đáng được sung sướng hãnh diện đi bên cạnh người đàn ông của mình! Không, không thể được! Chàng không thể đem hạnh phúc đến cho ai cả. Đạp đổ hết lắm khi chỉ làm bần tiện con người! Nhưng ... ..biết tìm đâu ra "chước thứ 37"?

Còn Vân, nàng cũng nghĩ thầm:

- Người ta có bổn phận rồi, rắc rối vô ích. Dù yêu nhau đến thế nào đi nữa, cũng chỉ để lụy cho nhau mà thôi. Gây ra gánh nặng mà không ai gánh nổi cả, thì tốt hơn nên de ra. Vã lại, xâm phạm đến "sở hữu" của người khác là một việc không tốt. Phạm tội thất đức. Chết xuống địa ngục A Tỳ.

- Nhưng ơ hay! Vân định sống lơ mơ trên đường đời như người say rượu không tìm thấy lối về như thế này suốt đời sao à? Có một căn nhà ấm cúng quá, nhưng của người khác! Chỉ có kẻ hành khất, trộm đạo, mới bồi hồi trước ngõ nhà người ta. Người say rượu nghĩ thế, nên dù khát, cũng không dừng lại xin một hớp nước.

Bây giờ Vân mới thấy sợ cô đơn. Vân tưởng tượng, nếu yêu nhau, lúc chàng ra về, Vân sẽ thấy trống trải sầu tủi đến như thế nào. Aáy là chàng không hề ăn " tô phở 5 giờ " , nếu không, còn ai oán cho người đứng bên cửa sổ nhìn theo nhiều hơn nữa!

Vân bất giác thấy thèm một tiếng động, một giọng nói. Ừ, nếu không ngọt ngào âu yếm thì cứ hát lên bài Con cà Con kê gì cũng đuợc . Ít nhất cũng làm cho gian phòng vắng lạnh, không gian và tâm hồn có một âm thanh xao động.

Nhưng sự thực chỉ có một mình Vân hay mấy cô láng giềng của nàng cần xao động thôi. Còn ngoài ra, thiên hạ ai cũng thích bình yên, êm đềm, xin hai chữ bình an. Vậy hãy cứ để cho họ yên. Vân chợt nghĩ ra như thế. . . và trong chốc lát, nàng quyết định rời bỏ căn gác Mái Đông, rời bỏ cái hẽm nhỏ và vùng Trời không mây này.

Pháo giao thừa bắt đầu nổ vài nơi xa xa vang lại. Vân đứng dậy nhìn sang. Hai cô láng giềng cũng đã ngồi bên cửa sổ từ lúc nào. Họ đang mơ một tiếng giầy hay một tiếng chìa khóa đụng nhau lẻng kẻng, mắt họ nhìn vào khoảng không, thất thần.

Vân nghĩ đến mai đây, khi nàng dọn đi rồi, không biết một tâm hồn như thế nào sẽ đến ẩn dưới cửa sổ Mái Đông này!

Vân bỏ căn phòng để trốn chạy ai đó mà nàng cảm thấy hình như mình đã mong chờ, mơ ước suốt nửa đời người.

Sự thật, Vân đã quá lo xa. Nàng không cần phải bỏ đi đâu, trốn chạy ai hết. Đêm giao thừa, mọi người đều say sưa trong khói hương trầm ấm cúng đoàn tụ. Dù họ có " ăn phở" giờ nào, đâu đâu đi nữa, phút giây thiêng liêng ấy, lá rụng về cội, họ vẫn là người của gia đình. Vân không hề làm khổ ai, nàng chỉ u mê tự làm khổ mình.

MỘT TRUYỆN NGẮN HAY NHẤT

Một Truyện Ngắn Hay Nhất

Sau bữa cơm tối, Quế dọn dẹp phòng mình thực nhanh. Từ hôm trời trở rét,nàng phải mang bao tay cao su để rửa bát, chùi nhà cũng như giặt dũ hay làm những công việc khác. Đó không phải là tính đài các rởm, nhưng trong mùa rét ai cũng làm thế để cho công việc nhanh chóng hơn. Nước lạnh buốt như nước đá mà phải thò tay không vào thì chắc áo quần suốt mùa đông không bao giờ được giặt. Nguyên tắc của Quế là làm thật nhanh để chóng được nghỉ, nên chỉ trong nửa giờ là mọi việc đâu vào đấy cả.

Thấy gian phòng đã sạch sẽ thứ tự lại như cũ, Quế rất bằng lòng. Quế nghĩ đến lời cô em luôn luôn nhắc : Này chị, không phải là " Ở bẩn sống lâu" đâu nhé. "Đói cho sạch, rách cho thơm" mới là văn hóa Việt Nam.

Ở cái thành phố Paris này mà ba chị em được mỗi người một phòng thì thực thần tiên, mặc dầu lầu sáu, nhưng lên 6 lần cầu thang thì có nghĩa lý gì đối với sinh viên. Quế thay quần áo ngủ xong, cho hai chân vào chăn, kéo chăn lên đến ngực, rồi ngồi dựa lưng vào tường. Ngoài chăn, Quế để cái khung nhôm, bên trên gác một tấm ván mỏng. Đó là bàn viết trên giường của cô em gái thương Quế, tính sợ lạnh, nên nhường cho nàng dùng. Bên cạnh, Quế để sẵn một cốc nước thật đầy, đủ uống suốt đêm, trên đầu là ngọn đèn nhỏ có cái chao mầu lá mạ, của một người bạn thân tặng. Ngọn đèn này đã theo nàng đi khắp nơi, và mỗi đêm, lúc Quế thao thức, thế nào cũng bật nó lên xem sách, hay có lúc chỉ nhìn sững ngọn đèn nghĩ ngợi chứ không làm gì cả. Bên cạnh giường là chiếc bàn con, từng trên để máy thu thanh, từng dưới đầy sách vở, giấy viết, máy chữ, Quế nằm trên giường, chỉ việc với tay là cái gì cũng có. Thì ra con người càng lười, cuộc sống tổ chức càng gọn gàng chu đáo.

Không còn thiếu thức gì nữa, Quế để tập giấy lên bàn và ngả đầu vào vách mơ mộng. Đã lâu, Quế có ý định viết truyện ngắn, nhưng có ý định là một việc, thực hành được lại là một việc khác, nhất là muốn viết cho ra hồn, truyện phải thật, phải sống, phải có những cảm xúc chân thành. Quế không biết kiếm đâu ra truyện hay như thế, mà nhất là cái " cảm xúc chân thành", nàng lại càng không biết làm sao có! Quế tự bảo:

- Hay là mình thử bịa xem, tưởng tượng một truyện " có thể được" và đặt tên là " Một truyện ngắn hay nhất". Chỉ hay nhất với mình thôi thì đã làm sao chưa? Mình chỉ viết cho mình đọc. Đâu có ai biết mà sợ người ta cười. Nhưng dù sao, đã gọi là truyện ngắn hay nhất, thì phải tả cái gì đẹp nhất. Mà ở đời, còn gì đẹp hơn tình yêu nữa! Tất cả muôn loài, muôn vật, muốn sống, muốn sinh tồn, đều phải có tình yêu. Người ta đã yêu trong quá khứ, hiện tại, và tương lai cũng còn phải yêu mãi mãi. Chỉ có tình yêu là bất diệt, bất hủ, không bao giờ lỗi thời. Như thế, truyện ngắn hay nhất của Quế phải dành cho tình yêu mới được.

Định nguyên tắc rồi, Quế thấy như trút được một gánh nặng. Bây giờ chỉ còn tìm nhân vật, cố nhiên là một nam một nữ, vì có thế mới yêu nhau được chứ! Quế thấy hình như công việc đã xong một phần mười, nàng tự thưởng cho mình một cốc nước lã.

Cốc nước trong máy mới vặn ra, nên rét buốt cả răng. Quế mới uống lúc đầu rất khó chịu, mãi sau dần dần cũng quen với cái cảm giác tê tái lúc nước đi đến đâu biết đến đấy, không còn khó chịu nữa. Vừa uống nước Quế vừa nghĩ đến nhân vật trong truyện của mình. Nàng không muốn cho vào hạng cao sang quá, vì hạng này trong đầu óc chỉ có phú quí, công danh, và đàn bà đối với họ chỉ là một thứ xa xỉ phẩm họ đủ sức mua sắm, trao đổi một cách dễ dàng; vì thế, rất hiếm có, hay hầu như không thể có chân tình. Quế nghĩ đến hạng bình dân, lao động, nhưng mặc dầu truyện về giới này rất hợp thời, Quế không dám viết bừa về họ. Những người dân lao động phải tranh đấu, vật lộn với cuộc sống vất vả, nên đời tình ái của họ cũng rất giản dị, bình thản. Aùi tình vớiø tất cả những biến chuyển, thắùc mắc của tâm hồn, đối với họ, là một thứ xa xỉ phẩm vô dụng. Quế không thể gán cho họ những ý tưởng họ không có.

Vậy "chàng" phải là một thanh niên trung lưu có học thức, có tâm hồn, có tư tưởng. Chàng cũng phải hơi đứng tuổi mới yêu được, nếu còn trẻ quá, thì sẽ chưa từng hiểu đời, chưa từng sống, chưa từng đắng cay, làm sao có thể đóng vài " chàng" trong truyện của Quế được. Còn " nàng" nữa, nàng phải có giáo dục, thông minh và rất nhiều tình cảm, nhưng không được trẻ lắm. Có bao giờ một cô bé độ mười lăm, mười sáu tuổi, có thể làm cho người ta yêu đến nổi sóng nổi gió trong tâm hồn được đâu! Tuổi dậy thì chỉ là tuổi của những mối tình ngây thơ, tình vớ vẩn, tình vụn buổi ban đầu, tình "bản thảo" của cuộc đời tình ái trọng đại về sau. Chỉ những thiếu nữ đã từng đau khổ, đã hiểu rõ những đức tính dễ thương và dễ ghét của đàn ông, mới biết quí, biết chiều, biết trân trọng tình yêu, biết nắm giữ tâm hồn ai đó.

Nhưng, anh chàng ấy có đủ điều kiện như thế không thể để cho cô đơn đến ngần ấy tuổi? Hơn nữa, câu chuyện đã được đem ra kể, ít nhất cũng phải có cái gì đặc biệt, chứ nếu yêu nhau, cưới nhau, rồi sinh con đàn cháu đống, lên chức bà nội, ông cố, thì có gì đáng nói nữa. Tình yêu của hai người phải trắc trở mới được. Nhưng, thời buổi bây giờ, cha mẹ cũng như tôn giáo, pháp luật, đều không thể cấm được người ta yêu nhau, cưới nhau, rồi "bách niên giai lão" với nhau. Vậy chỉ còn cách là Quế cho anh ta đã có đệ nhất phu nhân ngồi chễm chệ giữ sổ chi tiêu rồi là hợp lý nhất.

Quế nhìn lên trần nhà, thấy một con thạch sùng đang rình mấy con mối. Trong lúc mãi nhìn theo cuộc săn đuổi, Quế hồi hộp từng hồi khi thấy con mối thoát được, bay đi nơi khác, nhưng nó không ngờ góc nào trên trần nhà cũng có những con thạch sùng đang kiếm mồi chờ sẵn. Quế nhìn theo cho đến khi tất cả đàn mối đều dần dần vào bụng đám thạch sùng hết, nàng mới trở lại với câu chuyện tình " lâm ly" của nàng.

Quế tưởng tượng " chàng " và " nàng" sẽ rất yêu nhau. Yêu một cách say mê đắm đuối, tưởng chừng như hai linh hồn đã chờ đợi nhau từ kiếp nảo kiếp nào, mãi đến bây giờ mới được chạm trán . Quế sẽ cho họ nhìn nhau mà đôi mắt sẽ thay họ nói tất cả nhớ mong, chờ đợi. Quế sẽ cho họ cầm tay nhau và nghe hơi thở hòa lẫn như thông cảm đến tận tâm linh, và họ có cảm tưởng như một tư tưởng bé nhỏ nào, hay một cảm xúc rung động gì, cũng là của chung cả. Tóm lại, là họ phải yêu nhau đến cái nhiệt độ cao nhất của tình yêu có thể có được ở trên đời.

Nhưng, phần đông đàn ông, dù là Lưu, Nguyễn hay ai ai đi nữa, dù có lạc vào Thiên Thai, dù có sống với Tiên Nữ, dù có ở cảnh Tiên, bao giờ họ cũng vẫn nhớ đến cõi trần, dù cõi trần phàm tục, đầy những phiền não. Và kết quả, bao giờ cũng chọn con đường trở về trần gian để ngày đêm mơ tưởng cảnh tiên. Vì dù sao, như thế cũng vẫn hợp lý hơn là ở non Tiên mà đêm ngày canh cánh nghĩ đến cảnh trần gian đầy mùi tục lụy thì kỳ quá, coi không được, mà kể lại nghe cũng chẳng thuận tai.

Để cho hai người phải xa nhau ngay, Quế cũng thấy hơi tiếc và cho là mình tàn ác quá. Tại sao trên đời có hai người yêu nhau đến thế, và quyền sanh sát ở trong tay Quế, mà Quế không " gia ân" cho họ được gần nhau, yêu nhau thêm một thời gian nữa? Tại sao trên đời có những đôi ghét nhau như quân thù, thì lại cứ phải ăn với nhau, ngủ với nhau, nhìn nhau hàng tháng, hàng năm, cùng chung một gối màø chỉ mơ những vì sao Cô Thần Quả Tú? Nhưng dù sao Quế cũng phải cho họ xa nhau, nếu không, câu chuyện của nàng sẽ đi đến chỗ bế tắc.

Một khi chàng Lưu hay chàng Nguyễn đã động lòng nhớ phàm gian, thì " Tiên Nữ" dù có yêu đến đâu cũng không giữ làm gì. Nàng nhất định sẽ phải xa chàng, nhưng hai người sẽ xa nhau trong lúc còn yêu nhau, và yêu nồng nàn hơn lúc nào hết. Quế định thầm vì như thế để cho hai người cùng giữ mãi trong lòng cái kỷ niệm đẹp tuyệt vời của nhau, cùng được an ủi khi nghĩ rằng, trong đời, ít ra họ cũng đã gặp được một người xứng đáng cho họ yêu, họ đã từng yêu và được yêu đúng mức, họ sẽ không còn ân hận gì lúc buông xuôi hai tay.

Quế sẽ cho hai người từ giã nhau trong một đêm trời rất đẹp. Họ sẽ không ở nhà, vì nhà nhiều người lắm, làm sao nói chuyện được trong khi đôi mắt nàng lúc nào cũng chỉ rưng rưng rơi lệ. HoÏ cũng không đi lang thang ngoài đường, vì đèn đường sáng một cách trơ trẽn và cũng không hợp với câu chuyện tâm tình. Quế sẽ cho hai người ngồi bên bờ sông nhìn trăng, nhìn sao một lúc lâu, cho họ nói tất cả những lời đáng nói, cần nói, cho đến lúc sương xuống lạnh, họ sẽ vào một tiệm khiêu vũ gần đấy. Họ không nhẩy, nhưng chỉ ngồi trong ánh sáng êm dịu, nghe tiếng nhạc du dương. Họ không nói gì với nhau nữa, chỉ cầm tay nhau và mắt nhìn mắt, cùng thông cảm niềm đau khổ của chia ly đang ray rứt tâm hồn.

Quế bỗng thở dài vì thương nhân vật của mình quá. Nhưng nàng đã trót để họ ở vào cái thế cưỡi hổ mất rồi! Muốn vớt vát bớt sự tàn ác của mình, Quế chỉ có thể cho hai người được ngồi cạnh nhau lâu thêm một chút, hay là để cho đầu nàng gục vào ngực chàng, để cho những giọt nước mắt nóng thấm ướt vai áo chàng. Nhưng như thế cũng không được: Quế còn phải tả tâm tình chàng lúc ấy, bản tính nghịch ngợm, nhỡ Quế lại hạ bút viết rằng: " Chàng thấy nàng gục đầu vào ngực mình, sợ nàng vô ý để son dính vào áo, về nhà sẽ không biết nói sao với vợ, nên hoảng hốt vội xô nàng ra . . ." Nếu Quế tả như thế thì chao ơi! Cái "Truyện ngắn hay nhất" của nàng chỉ còn có việc đem cho gà ăn mà thôi!

Quế định sẽ giữ cho đầu người nữ thực thẳng, không nghiêng một chút nào hết, để chàng được bình tĩnh, yên tâm, khỏi sợ son dính vào áo . . . nhưng như thế lại sợ nhạt nhẽo quá. Hai người yêu nhau điên luôn, mà lúc từ giả nhau một lần cuối để rồi xa nhau mãi mãi, kẻ góc bể người chân trời, lại lạnh lẽo như hai " đồng chí" lúc bàn giao công việc thế không được. Phải cho đậm đà hơn một chút, nếu không, người ngoại cuộc cũng thấy chướng mà phản đối và mất thiện cảm với chàng còn gì. Làm thế nào nhỉ? Quế không cho họ hôn nhau và cũng không muốn thấy họ lãnh đạm với nhau. Nàng không muốn họ có vẻ phàm tục thông thường quá. Tình yêu của hai người rất cao quí, nhất là trong giờ từ giã, niềm đau của chia ly phải dâng lên tràn ngập trong lòng, họ không có cái ý muốn rất người ấy nữa. Những cái hôn nồng cháy biểu lộ ao ước thân cận của thể xác, mà không thể làm giảm bớt chua xót của tâm hồn.

Trong lúc tưởng tượng, Quế như đặt mình vào chính cảnh thật và nàng thấy lòng mình cũng tràn ngập thương cảm. Trong một lúc mềm lòng, nàng định tìm cách vớt vát cho nhân vật của mình bớt khổ, để cho họ thấy cuộc đời có nghĩa lý hơn, đáng sống hơn.

Quế đang đắm mình vào câu chuyện một cách say sưa cảm động, thì bỗng có tiếng cãi nhau ở dãy nhà đối diện. Quế nhìn sang, thấy vợ chồng ông Giáo đang đứng ngoài hiên cãi nhau. Thường thường, hai vợ chồng này bao giờ cãi nhau cũng vào nhà trong và không bao giờ to tiếng như hôm nay. Quế không cần lắng tai cũng nghe rõ, vì giọng bà Giáo the thé quát rất to, át cả những lời khuyên can của ông Giáo. Bà Giáo đang cầm một tấm nệm chà chân, rũ cả bụi xuống hiên từng dưới.

Ông Giáo bảo:

- Sao em không để lúc khác hãy rũ bụi. Giờ này là giờ người ta ngồi ở nhà, em đập bụi như thế không phải.

Bà Giáo cười nhạt:

- À, bây giờ anh phản rồi phải không? Từng dưới là nhà cô ấy, thảo nào mà anh bênh nó. Này, tôi nói cho mà biết, đứa nào cướp chồng bà, bà xé xác nó ra.

Quế thở dài, nguồn văn của nàng thế là đành chết đứng. Theo nguyên tắc của Quế, hàng xóm cãi nhau, bao giờ nàng cũng đứng trung lập, nhưng vẫn phải làm " quan sát viên" xem tình hình và chú ý nghiên cứu thứ văn chương ứng khẩu này, để " tăng gia kiến thức". Quế đành phải dẹp bỏ câu chuyện nàng đang xây dựng để theo dõi tình hình " mặt trận" hình như đã đến lúc căng thẳng.

Cô ở từng dưới là Sâm, ngày thường vẫn hiền lành nhã nhặn, nhưng hôm nay bỗng phát dữ như con chó dại. Cô cũng lên tiếng:

- Bà nói ai đấy? Muốn dạy chồng bà, thì đóng cửa lại mà dạy!

- Bà chửi con nào ngày ngày nhìn chồng bà, ra cũng nhìn, vào cũng nhìn!

- Đi giữa đường, cấm người ta nhìn à? Muốn giấu, sao không gói cho kỹ?

Ông Giáo can:

- Thôi em, láng giềng với nhau cần phải giữ hòa khí. Em đừng ghen bóng ghen gió như thế, mang tiếng cả. Cô ấy cùng dạy một trường với anh, ra vào gặp nhau phải chào hỏi là sự thường và lễ phép bắt buộc. Em đừng nghi bậy.

Bà Giáo quát lên:

- À, bây giờ anh về hùa với nó để mắng tôi đấy à? Bà không phải là đứa dễ bắt nạt đâu! Đứa nào dám động đến chồng bà, bà xé xác ra. Đồ đĩ thõa!

Cô Sâm cũng to tiếng chẳng kém:

- Thế còn bà, đứng đắn lắm đấy hẳn? Chồng vừa ra khỏi cửa đã dắt trai vào nhà. Chồng đi bộ, để xe cho bà chở trai đi dạo, cả con đường này, cả thành phố này, làng trên xóm dưới còn có ai là người không biết! Bà quên thì tôi nhắc cho bà nhớ: nhân tình của bà cũng nhiều không kém gì rác bụi bà mới rũ xuống đâu! Có muốn nghe tên, tôi kể ra cho mà nghe?

Bài ca vọng cổ đang sắp đến đoạn lâm ly nhất, thì bà Giáo đã kéo ông Giáo vào nhà trong, đóng cửa đánh sầm một tiếng. Cô Sâm cũng vào nốt. Thế là hạ màn.

Quế chợt ïnhớ đến lúc thằng em trai sắp cưới vợ thì đạo luật gia đình ra đời. Trong một lúc " cảm khái", hắn đã " cảm đề" luật ấy bằng một bài hát, theo điệu bài " Nếu một mai em sẽ qua đời" của Phạm Duy. Quế chỉ nhớ được một câu :" Nếu một mai anh có mọc sừng . . . thì vuốt mà chơi". Không thể nhịn cười được, Quế gục đầu xuống bàn, ôm ngực cười sằng sặc. Nàng cười đến đau quặn cả bụng khi nhớ đến cái giọng đau thương một cách khôi hài của thằng em.

Xong cơn cười, Quế lại thừ người ra vì buồn. Quế nghe như có cái gì đâm nhói từng cơn trong tim nàng. Câu chuyện của Quế đã bị xuyên tạc một cách mỉa mai. Trong khi xây dựng nhân vật, Quế đã nghĩ đến ông bà Giáo, nàng đã mượn hình ảnh của hai người ấy. Nhưng bây giờ, sự thực trắng trợn đến như thế, còn biện hộ làm sao được nữa! Quế định cho chàng dứt tình vì quí người vợ hiền đức. Sự thực trái lại, vợ chàng cái gì cũng thừa, chỉ thiếu có một điểm hiền đức. Còn chàng, con người như thế mà hơi kém hiên ngang! Chàng " nể vợ" đến nỗi không dám liếc nhìn cô Sâm một cái, nói gì đến chuyện dám yêu " nàng" một cách say đắm! Quế đã mượn hình ảnh Sâm để tạo ra " nàng", nhưng Sâm cũng làm cho Quế thất vọng. Sâm không cao thượng, không hy sinh như Quế định gán cho nàng những đức tính ấy. Lúc Sâm thấy mình bị xúc phạm, nàng trả miếng bằng cách nói toạc ra những hành động ám muội của bà Giáo mà ai cũng biết, chỉ trừ ông Giáo.

Làm thế nào bây giờ? Không, Quế không thể ép buộc nhân vật của mình phải " lý tưởng hóa" một cách giả tạo. Phải để cho họ sống thực và gần với sự thực mới được, dù sự thực có éo le hay " kém mỹ thuật" đến thế nào đi nữa.

Quế lại bắt đầu nghĩ tiếp câu chuyện bỏ dở. À, phải rồi, hai người đang ngồi cạnh nhau rất âu yếm dưới ánh sáng êm dịu, nghe tiếng nhạc du dương. Thế rồi, bên ngoài một cặp nam nữ đi vào. Chàng tinh mắt nhận ra ngay đấy là vợ mình. Vợ đang đi với một thằng bạn. Hai người cắp tay nhau, cũng âu yếm không kém gì chàng và nàng. Họ tìm một chỗ ngồi trong bóng tối, họ nắm tay nhau, họ tựa đầu vào vai nhau. Âm nhạc nổi lên, họ bèn ra sàn nhảy, đôi chân quấn quít, đôi tay ghì chặt, má áp má một cách say sưa . . .Họ nhảy rất đẹp, rất điệu nghệ, rất xứng đôi. Họ lướt qua bàn chàng và nàng đang ngồi. . .Trời ơi! Thật tuyệt vời! . . . Rồi tám mắt nhìn nhau, chẳng còn ai phải nghi ngờ ai điều gì nữa!

Quế nhắm mắt ngả đầu vào tường, không dám nghĩ thêm. Nàng thấy thần kinh căng thẳng, cả người mệt mỏi vô cùng. Mà nào nàng có làm việc gì nặng nề cho cam! Sau bữa cơm tối cho đến bây giờ, nàng chỉ nằm dài trên giường nghĩ vẫn vơ, xem thạch sùng bắt mối trên tường, nghe hàng xóm cãi nhau, lại còn thưởng thức từng câu một cách thú vị. Nhưng Quế đã mệt mỏi thực. Nàng đã chọn một việc làm quá sức mình. Đáng lẽ Quế nên đọc một vài trang sách rồi ngủ một giấc đến sáng cho khỏe thân, khỏe trí, nàng lại chọn cái việc làm khó khăn nhất.

Quế không dám nghĩ thêm nữa. Câu chuyện của nàng định viết và cho mang cái tên " Một truyện ngắn hay nhất" sẽ không bao giờ viết thành. Quế làm sao tả nổi tâm tình chàng lúc " tám mắt nhìn nhau!" Người vợ mà chàng tin tưởng là hiền đức, người vợ chàng chiều quí như bà hoàng và để cho tự do như một người độc thân, người vợ chàng vẫn còn yêu vì nghĩa, vì tình, người vợ chàng không lúc nào kém yêu, ngay cả những lúc ngồi bên cạnh nàng, và một phần mười những lời chàng nói với nàng là lời ca tụng đức tính hiền đức của vợ. Những lời đồn đãi, chàng cũng có nghe nhưng không tin, cho là thiên hạ ganh ghét hạnh phúc của chàng nên bịa đặt để phá hoại. Có một lúc chàng đã tưởng mình là người sung sướng nhất đời, vì có hai người đàn bà nói với chàng:" Em yêu tất cả cái gì anh yêu" và " Em yêu cả vợ anh nữa, bởi vì anh yêu vợ anh!". Chao ơi! Thật là mỉa mai làm sao! Bây giờ, cả hai người ấy, một người ngồi bên cạnh, một người đứng trước mặt, đều như " nước chảy mây trôi" cả!

Quế làm sao diễn tả được cái cảm giác của một người đàn ông lúc thấy rõ ràng mình đã được ở cái cảnh " Nếu một mai . . . ".

Quế làm sao diễn tả nổi tâm tình của nàng lúc nhìn thấy vợ của người yêu. Trong khi nàng tự nghĩ không biết mình còn phải tu đến bao nhiêu kiếp nữa mới " được " chàng, thì kẻ có cái hạnh phúc ấy đã xem thường, xem khinh, đến nỗi chàng " Nếu một mai . . .".

Quế làm sao diễn tả được tâm tình anh chàng ăn cắp vợ bạn bị bắt gặp: sượng sùng, bối rối, trơ trẽn, lưu manh . . .

Quế làm sao diễn tả nổi tâm lý người đàn bà, yêu danh giá, địa vị, tiền bạc, giàu sang của chồng,và cũng yêu cả những anh chàng trai khỏe mạnh khác ngoài chồng ra! Quế làm sao diễn tả nổi cái dáng điệu bẽn lẽn ngượng ngùng của người vợ lúc cắp tay tình nhân, vội vàng ra cửa. Cái bộ mặt vừa tức vừa lo. Tức vì thấy chồng đi với ai khác, và lo vỡ mất nồi gạo, lo nghĩ cách cắt nghĩa cho trôi để lừa người chồng vẫn dễ lừa xưa nay, lo nghĩ mưu " phản công". Chao ơi, thật là ngổn ngang trăm mối ! . . .

Không, nhất định là Quế không thể nào tả nổi đến mức ấy. Quế không tả được tất cả cái mầu nhiệm, bao la, hy sinh, cao quí của tình yêu đẹp đẽ tưởng tượng, mà nàng cũng không tả được cái tình yêu ích kỷ, giả dối, nhỏ mọn, bần tiện của sự thực. Quế đành phải nhìn nhận là ngòi bút non nớt chưa chiều được ý muốn của mình. Quế tự bảo:

- Hay là mình viết một truyện ngắn hay nhì vậy?

Quế mỉm cười vì thấy cái tên ngộ nghĩnh. Nhưng đã thế thì đề tài cũng phải thay đổi hẳn mới được. Ừ, thiếu gì chuyện đáng viết, mà phải viết những cái chuyện tình nhảm nhí ấy.

Quế nghĩ đến những cảnh thiên nhiên nàng đã trải qua, nghĩ đến đèo núi chập chùng, trời bể bao la, Đèo Hải Vân hùng tráng,Vạn Lý Trường Thành vĩ đại, Kim Tự Tháp uy nghi . . . Nhưng một lần nữa, Quế lại thất vọng. Quế thấy mình không thể diễn tả được cái mầu nhiệm của vũ trụ, uy nghi của núi sông, hùng tráng bao la của trời bể. Quế không tả được những cảm xúc đang dào dạt ngay chính trong lòng nàng.

Quế tự cười thầm mình:" ngay chính cảm giác của mình cũng không tả được, còn đòi tả cảm giác của người khác, thật là điên cuồng!" Nhưng có lẽ nào lại hạ xuống một lần nữa, thành " Một truyện ngắn hay ba"? Tên nghe không thuận tai, mà ba cũng có nghĩa là hạng bét nữa. Nếu Quế phải đem hết tâm trí ra, chỉ để viết một truyện ngắn hay hạng bét, thì cũng nên quăng bút về vườn trồng rau, nuôi gà xin hai chữ bình an!

Quế hết nhìn giấy lại nhìn bút. Nàng phải viết, vì theo Quế, đã định viết mà trốn chạy là có lỗi với giấy với bút. Nhưng, chỉ mới viết được mấy dòng, Quế đã mệt mỏi quá gục đầu xuống bàn ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Lúc Quế tỉnh dậy, trời đã gần sáng. Ngọn đèn đêm vẫn còn soi màu lục non êm dịu trên đầu giường. Cái bàn nhôm nhẹ vẫn còn kê ngang trên mình. Quế nhìn trang giấy trắng tinh trên bàn, ngoài đầu đề "Một truyện ngắn hay nhất", chỉ có mấy dòng : " Nếu em chết trước, em sẽ phù hộ anh". Thì ra, Quế đã viết câu Quế định cho " nàng" nói với "chàng" lúc hai người từ giã nhau.