Nguyễn Ngọc Tư
Lương
chèo đò mướn năm 12 tuổi. Nhà Lương nghèo, chỉ là cái chòi rách tả tơi,
từ ngày đi chèo đò, Lương ăn, ngủ trên bến đò nên nhà đã bỏ hoang hẳn.
Suốt ngày quần quật trên sông mà bộ mình khẳng khiu chỉ độc cái quần tà
lỏn dính đầy nhựa trong của thời làm sai vặt ở các trại xuồng. Lương
không cha, má chết sớm nên cái quần dãn dây thun không ai may lại, nó
tuột luốt mỗi lần Lương thót bụng rướn người trên đôi chèo.
Bây giờ cũng còn nhiều người nhớ dai nhắc hoài
bộ dạng Lương hồi đó. Bây giờ Lương ba mươi mốt tuổi. Anh đã chèo hết
thảy chín xác đò. Bến đò Đậu Đỏ qua xóm Miễu sang đi nhượng lại qua tay
bốn người chủ. Mà, Lương vẫn còn nghèo. Lương khoe, nghèo, cực nhưng vui
lắm. Ngày trăm lượt chèo nát mặt sông từ bến xóm Miễu qua bến chợ, anh
chứng kiến biết bao nhiêu thay đổi, cuộc đời, những dòng người xóm Miễu
già đi, những thằng con trai, đứa con gái lấy nhau sinh ra nhiều thiệt
nhiều đứa trẻ. Và những đứa trẻ lớn lên…
Chỉ
Lương là già câng già cấc, già cóc thùng thiếc rồi mà chưa lấy vợ. Hỏi
Lương, Lương cười hì hịch: “Tui xấu muốn chết, ai mà thèm ưng…”. Lương
xấu trai thật. Tướng Lương nhỏ xíu, teo héo. Đầu to, tóc dày, cứng, cháy
nắng. Một bên mắt lé xẹ. Ai cũng cười: “Cái thằng, mầy chèo mà không
ngó đằng trước, ngó đâu trật lất vậy?”. Lương không giận, cái thân nhỏ
mồ côi mồ cút, nghèo xác xơ mà bày đặt giận cuộc đời thì làm sao sống
nổi. Suốt ngày anh hệch miệng ra cười, làm như vui, làm như không, khó
nắm bắt. Lương khoái cặp mắt mất đoàn kết của mình lắm, người ta nhìn
anh biết, chứ anh mà nhìn lại, người ta tưởng anh ngó đâu đâu.
Bông
cũng bị Lương nhìn như vậy. Nhà Bông cũng ở bên xóm Miễu, gần chòm mả
Tiều. Lương biết Bông từ hồi Bông còn đi học. Bông mê đi sông, lần nào
nó cũng năn nỉ Lương lén bà chủ bến cho nó ăn gian thêm mấy bận nữa. Nó
ngồi đằng mũi, thò chân xuống nước quậy quậy chơi. Ngày nào, Bông cũng
mặc chỉ một cái áo trắng bằng vải soa lông vịt, chiếc áo hơi ố vàng,
rộng thùng thình. Tan học, Bông cùng một bầy em lít chít đi mót cây vụn ở
các trại xuồng về nấu cơm. Má nó có một chiếc xuồng cũ, hai bên be bể
như cá chốt rỉa, bà bơi đi vớt chai nhựa dưới sông. Ba nó đi nhậu, nhậu
xong về đánh má con nó. Lớn lên, mỗi lần qua đò, Bông thôi vọc nước, nó
ngồi nhìn đăm đăm xa xa. Con sông Thủ đến ngã ba Vàm bỗng cuồn cuộn quặn
đau khi hòa dòng Gành Hào ra biển. Bông lớn mau lắm. Chuyện đó không
biết có mắc mớ gì mà tự nhiên Lương khoái soi mình xuống sông, những khi
vắng khách, Lương ngồi mằn mằn lấy cồi mấy mụt mụn trên mặt. Lương than
với bà Tư, chủ bến “Sao lúc rày tui đen quá chừng, làm gì cho trắng, dì
Tư?” Bà Tư cười, “Chà, biết điệu rồi hả con? Muốn vợ hả? Mầy ráng dành
dụm tiền, mai mốt có vợ rồi tao sang lại bến đò cho mà làm ăn”. Con mắt
lé giả đò thờ ơ nhìn chỗ khác nhưng con mắt còn lại nhấp nháy thắp lửa
lên. Mắc mớ gì Lương lại nghĩ tới Bông.Bông thôi học. Bữa cuối, tan
trường, qua tới bờ xóm Miễu, Bông không chịu lên bến, nó biểu Lương cho
nó đi thêm bận nữa, từ mai nó đã thôi học rồi. Từ mai, nó vẫn qua đò,
nhưng nó đã khác, con Bông đã khác.
Con Bông đã
khác. Buổi sáng, nó mặc áo rách qua chợ, nom xơ xác. Buổi chiều Bông
về, trên mình là chiếc váy ngắn, áo yếm, vai quàng hờ hững hai cái dây
nhỏ xíu vịn hờ cái áo khỏi tuột xuống. Lương hệch miệng ra cười, khen
đẹp quá ta. Bông chù ụ, lườm một cái rồi hất mặt đi, “Đẹp khỉ khô gì,
tui đâu có ham”. Bông bước lên bờ, đạp giạt mũi đò ra.
Đám em Bông
mặc áo mới tới trường. Má Bông sắm được chiếc xe đẩy bán bánh mì thịt
dài dài qua các hẻm. Ba Bông đi nhậu về, đã ngủ rất say. Người xóm qua
đò bảo nhau Bông đi bán bia bên cầu, quán “Đêm sầu”. Bốn giờ chiều,
Lương đưa Bông qua chợ. Bông nói giờ đó quán chưa có khách đâu, nhưng
con mẹ chủ bắt phải mặc quần lửng ngồi ngoài băng đá đằng trước quán.
Một bầy con gái ra đó giả đò ngắm mây trôi gió trôi, coi xe cộ qua lại
chơi nhưng thật ra là để chào hàng. Bông trở về lúc hai ba giờ sáng,
quần áo xốc xếch, tóc mai dính bết vào khuôn mặt dày son phấn. Đôi mắt
dại đi vì say, vì mẩt ngủ, người sềnh sệch mùi bia, đến nỗi Bông ngồi
gần, Lương hít hơi men muốn xỉn luôn.
Lương ăn
trên sông, ngủ trên sông nên không biết ở phía bờ, người ta đưa đẩy cuộc
đời Bông như thế nào. Nhưng thế nào thì Bông chắc cũng giãy dụa, quặn
đau như nước ở ngã ba Vàm vậy.
Một bữa,
Bông lận trong áo lót ra một nắm tiền, xòe tròn trên tay, quạt phơ phất
mát mặt Lương, Bông cười cay đắng, “tui giàu rồi nè”. Nó bảo Lương chèo
đi, chèo hết đêm nay. Lương chèo trong những ánh đèn hắt ra từ hai bên
bờ xóm chợ. Bông nhìn ra sông, cái nhìn vẫn buồn như lúc trước nhưng nó
đã đanh đi, chai lì đi. Lương hỏi Bông bộ tính làm như vậy hoài sao.
Bông cười, chừng nào có người cưới tui. Lương hỏi, “Xấu xấu Bông chịu
hông?”. Bông cười, “Thân tui còn gì kén chọn nữa, đồ khùng?”.
Lương
khôn thấy mồ chứ khùng đâu. Bữa sau, Lương ngồi gãi tai, gãi đầu hỏi bà
Tư coi bà còn nhớ lời hứa nhượng lại bến đò hồi trước không, bà cười,
“Nhớ, nhớ chớ sao không? Tiền mày gởi tao, dư sức qua cầu rồi”. Nhưng bà
không biết đâu, Lương còn nhiều dự tính nữa…
Lương
đi xin cây vụn về để sẵn dưới sạp, rảnh rản, anh lấy ra cưa đẽo đóng
một cái hộp đựng tiền nho nhỏ, nhiều ngăn. Ngăn đựng giấy bạc hai trăm,
năm trăm, ngăn đựng giấy bạc một ngàn. Lương mua giấy nhám về đánh cho
nó bóng lên, rờ tay cho mát rượi. Lương giấu nó đi để khỏi ai trông
thấy, sợ người ta hỏi tới. Mắc cỡ lắm. Mà, anh còn chưa nói với Bông.
Nhưng
Bông đã nói trước, Bông khoe, “Chắc tui bỏ nghề, tui lấy chồng”. Lương
rà mái chèo cho đò cặp bến, Lương hỏi Bông lấy ai? Bông cười: “Cái ông
hồi nãy đưa tui về”. Lương chết lặng, muốn sụm giò, mà miệng vẫn cười
hịch hạc, “Sướng nghen!”.
Ông già vẫn thường
đưa Bông về xóm Miễu. Người ta nói, con Bông ham giàu nên ráng kêu ông
ngoại đó bằng anh. Bông giẫm cái cười của cuộc đời lên đôi giày cao hai
tấc. Bông chờ ngày lấy chồng.
Nhưng bà
già, vợ ông già không chịu, bà lùa bầy con qua nhà, rọc nham nhở mái tóc
dài của Bông, xé quần áo, lột sạch những món đồ trang sức Bông đang
đeo. Chuyến về, đám người đó qua sông. Lương trù trừ chờ tàu cao tốc
chạy qua rồi nương theo sóng lớn nhận chìm đò luôn. Bà già suýt chết
đuối, may nhờ Lương ngoi ngóp kéo lên bờ. Bà vừa níu Lương vừa chửi: “Đồ
không có văn hóa, đồ thất học”. Lương cười hề hề, sao bà chửi câu nào
trúng câu đó vậy.
Bông biết chuyện, Bông
nói trong ngân ngấn nước mắt “Làm chuyện đó chi vậy, Lương? Của người ta
thì trả lại cho người ta đi. Tại tui dễ tin người…”. Lần đầu tiên, Bông
gọi Lương theo đúng tên của anh chứ không kêu “khùng”, kêu “đò” nữa.
Lương sướng tê người đi. Bông ngồi chỏi tay ra ngoài sau, ngẩng mặt lên
nhìn Lương như chị Hai nhìn thằng Út, như con chó Vá nhìn đống thóc.
- Anh thương tui hả, Lương?
Lương
cười. Khuya đó về, sông vắng. Lâu lâu mới có một chiếc ghe chở cát, chở
dầu tạch tạch đi qua, ánh đèn đỏ lòm xa xa như ánh nến. Bông biểu có
thương Bông thì ngồi gần Bông đi. Nước đứng rồi, đò có trôi đi đâu mà
sợ. Hai đứa ngồi một bên be xuồng, nó nghiêng nghiêng lơ lửng. Bông biểu
Lương nắm tay nó đi, Lương không dám, hai đứa cách nhau chừng bốn gang
rưỡi. Lương nín khe hồi lâu rồi thở ra:
- Gió mát thiệt, hen?
- Lương!
- Gì?
- Ôm tui đi.
- Ý trời, người ta dòm.
- Thây kệ họ. Ôm tui đi.
- Thôi, kỳ lắm…
Bất thần, Bông xô Lương té ngửa xuống nước. Đợi Lương vẹt đám rác trôi lều bều, trồi đầu lên, Bông nói:
-
Mắc cười quá, mắc cười thiệt. Tới xấu xí khùng khịu như anh mà còn chê
tui nhơ nhớp đến nỗi không dám rờ. Trời ơi, mắc cười quá…
Lương
vịn một tay vô be xuồng, tay kia vuốt nước trên mặt. Trong lòng anh
nghĩ rất nhiều mà không nói được lời nào. Anh khờ khạo không có năng
khiếu nói, lâu rày anh chỉ biết cười. Lương không muốn mình giống như
bao thằng đàn ông khác, đối với Bông như với một món đồ chơi. Bông là
Bông, là con gái, là người.
Sau này, Bông dửng dưng qua đò như
chưa hề có cái đêm hôm đó. Bông đi với một thằng con trai mới. Thằng này
để tóc năm năm nên Lương kêu nó bằng “Năm-năm”. “Năm-năm” trẻ măng,
quần áo thơm, đầu tóc thơm, chiếc xe phân khối lớn nổ tè tè ra đám khói
cũng thơm. Bốn giờ, “Năm-năm” đón Bông ở bến đò. Nó hất mặt hỏi Lương có
biết Hồng không? Lương nói Lương chỉ biết Bông thôi. Lòng anh nghĩ, dù
là Hồng, là Mai, là Cúc thì vẫn là Bông. “Năm-năm” cười sùi sụt: “Ông
nội nầy cù lần thiệt”. Bông qua sông đi rồi, mấy bà già đi chợ về nguýt
muốn rách đuôi con mắt:
- Con gái con đứa gì mà ngồi vểnh phao câu, thấy ứa gan.
Lương
lặng lẽ cười. Anh đưa Bông đi rồi chở Bông về. Kỳ cục, Lương không biết
rằng mỗi lần thấy Lương dại miệng kéo răng ra cười là lòng Bông quặn
đau. Bông muốn nhìn thấy anh buồn, thấy trong mắt anh lộ ra một cái nhìn
ghen tức. Nhưng Lương không được thông minh lắm, anh không hiểu.
Một chiều anh đưa Bông tươi hồng qua sông, sáng hôm sau má Bông với đám em qua đò, mếu máo:
- Con Bông nó bị nạn.
Nghe
nói một vụ tai nạn giao thông thảm khốc xảy ra trong cuộc đua xe. Nghe
nói Bông không còn có thể đi được trên đôi chân của mình.
Lương
chỉ nghe người xóm Miễu qua đò nói lại. Lương không bỏ đi đâu khỏi đôi
chèo. Lương không rành gì ngoài cái bến, dòng sông, đất đai xóm Miễu.
Lương chờ Bông về.
Bến đò xóm Miễu thay đổi chủ. Lương vẫn mải
miết chèo qua chèo lại, càn lên dòng chảy, sóng nước mà đi. Bông ngồi
trên bến thu tiền. Nó vuốt phẳng phiu những tờ bạc lẻ cũ mèm vào từng ô
của chiếc hộp Lương đóng ngày xưa. Người lạ qua bến nhìn Bông xinh đẹp
tươi hồng rồi đọ với vẻ mặt già háp của Lương mà tiếc hùi hụi, tiếc đôi
đũa mốc gác lên mâm son, tiếc bông lài thơm mà cắm nhầm bãi cứt trâu…
Người xóm Miễu cự, nói Lương mới thấy thương, mới thiệt thòi, đã cưu
mang đứa con gái đã lỡ lầm còn tàn tật. Chớ biết làm sao, lỡ thương quá
chừng rồi…
No comments:
Post a Comment