Vào
đầu tháng 5 vừa qua, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 đến
đặt tại vùng biển gần đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa, mà Trung
Quốc đã đánh chiếm của Việt Nam Cộng Hòa ngày-19-1-1974. Sự xuất hiện
giàn khoan nầy làm rộ lên trở lại dư luận trong và ngoài nước vấn đề
công hàm ngày 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt Nam trước
đây.
Chắc chắn bản công hàm nầy được Hồ Chí Minh và Bộ chính trị đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản) chuẩn thuận và được gởi thẳng cho Trung Quốc mà không tham khảo ý kiến hay thông qua quốc hội Bắc Việt. Quốc hội Bắc Việt lúc đó nguyên là quốc hội được bầu ngày 6-1-1946, gọi là quốc hội Khóa I. Sau chiến tranh 1946-1954, đất nước bị chia hai. Nhà nước Bắc Việt triệu tập những dân biểu cộng sản còn sống ở Bắc Việt vào tháng 9-1955, tiếp tục hoạt động cho đến ngày 8-5-1960, Bắc Việt mới tổ chức bầu lại quốc hội khóa II, khai mạc phiên họp đầu tiên tại Hà Nội ngày 6-7-1960.
1. Tuyên bố của Trung Quốc
Từ
24-2 đến 29-4-1958, các thành viên Liên Hiệp Quốc (LHQ) họp tại Genève
bàn về luật biển. Hội nghị ký kết bốn quy ước về luật biển. Riêng quy
ước về hải phận mỗi nước, có 3 đề nghị:
3 hải lý, 12 hải lý và 200 hải lý. Không đề nghị nào hội đủ túc số
2/3, nên LHQ chưa có quyết định thống nhất. Lúc đó, Trung Quốc và hai
miền Nam và Bắc Việt Nam không phải là thành viên LHQ nên không tham dự
hội nghị nầy.
Trước cuộc tranh cãi về hải phận, ngày 28-6-1958, Mao Trạch Đông tuyên bố với nhóm tướng lãnh thân cận: “Ngày nay, Thái Bình Dương không yên ổn. Thái Bình Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.” (Jung
Chang and JonHalliday, MAO: The Unknown Story, New York: Alfred A.
Knopf, 2005, tr. 426.) Tiếp đó, ngày 4-9-1958, Trung Quốc đưa ra bản
tuyên bố về hải phận gồm 4 điểm, trong đó điểm 1 và điểm 4 được dịch như
sau:
(1)
Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý.
Điều lệ nầy áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài
khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả)
và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Nansha tức Trường Sa], và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
...
(4) Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu [Bành Hồ], quần
đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc... (Nguồn:://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm>).
Mục
đích của bản tuyên bố ngày 4-9-1958 nhằm xác định hải phận của Trung
Quốc là 12 hải lý. Tuy nhiên điểm 1 và điểm 4 của bản tuyên bố cố ý lập
lại và mặc nhiên khẳng định chắc chắn rằng hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa (vốn của Việt Nam) thuộc chủ quyền của Trung Quốc và gọi theo
tên Trung Quốc là Xisha [Tây Sa tức Hoàng Sa] và Nansha [Nam Sa tức
Trường Sa].
Điểm
cần chú ý là Trung Quốc lúc đó chưa phải là thành viên Liên Hiệp Quốc
và không thể dùng
diễn đàn của Liên Hiệp Quốc để bày tỏ quan điểm và chủ trương của mình,
nên Trung Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên bố nầy, thông báo quyết định
về lãnh hải của Trung Quốc. Vì vậy các nước không nhất thiết là phải
trả lời bản tuyên bố của Trung Quốc, nhưng riêng Bắc Việt Nam lại tự ý
đáp ứng ngay.
2. Công hàm bắc Việt
Trước
khi ký kết hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai đất nước, đảng Lao
Động (tức đảng Cộng Sản Việt Nam) đã sắp đặt trước kế hoạch tiếp tục
chiến tranh đánh miền Nam. Chủ trương nầy được đưa ra rõ nét tại hội
nghị
Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Guangxi), từ ngày 3 đến ngày
5-7-1954 giữa Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai.
Sau
khi đất nước bị chia hai, Bắc Việt nằm dưới chế độ cộng sản do Hồ Chí
Minh và đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản Việt Nam) lãnh đạo. Muốn đánh
miền Nam, thì Bắc Việt cần được các nước ngoài viện trợ, nhất là Liên Xô
và Trung Quốc. Vì vậy, khi Trung Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên bố
về lãnh hải ngày 4-9-1958, chẳng cần tham khảo ý kiến Bắc Việt, thì
“không gọi mà dạ”, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, lại hưởng ứng
ngay, ký công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về hải phận của
Trung Quốc để lấy lòng chính phủ Trung Quốc.
Mở đầu bản công hàm, Phạm Văn Đồng viết: “Thưa Đồng chí Tổng lý”. Kết thúc bản công hàm là câu: “Chúng tôi xin kính gởi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.”
Gọi nhau đồng chí là ngôn ngữ giao thiệp giữa đảng với đảng trong cùng
một hệ thống cộng sản quốc tế, khác với ngôn ngữ ngoại giao thông
thường. Nội dung bản công hàm Phạm Văn Đồng nguyên văn như sau:
“Chính
phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố
ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc,
quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính
phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ
thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận
12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Quốc trên mặt bể.”
Chắc chắn bản công hàm nầy được Hồ Chí Minh và Bộ chính trị đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản) chuẩn thuận và được gởi thẳng cho Trung Quốc mà không tham khảo ý kiến hay thông qua quốc hội Bắc Việt. Quốc hội Bắc Việt lúc đó nguyên là quốc hội được bầu ngày 6-1-1946, gọi là quốc hội Khóa I. Sau chiến tranh 1946-1954, đất nước bị chia hai. Nhà nước Bắc Việt triệu tập những dân biểu cộng sản còn sống ở Bắc Việt vào tháng 9-1955, tiếp tục hoạt động cho đến ngày 8-5-1960, Bắc Việt mới tổ chức bầu lại quốc hội khóa II, khai mạc phiên họp đầu tiên tại Hà Nội ngày 6-7-1960.
3. Trung Quốc biện minh
Khi
tự động đem giàn
khoan 981 đặt trong vùng biển Hoàng Sa, vi phạm lãnh hải Việt Nam,
Trung Quốc liền bị dân chúng Việt Nam biểu tình phản đối mạnh mẽ và dư
luận quốc tế lên án, thì nhà cầm quyền Trung Quốc cho người sử dụng công
hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958 để nói chuyện.
Cùng
ngày 20-5, hai nhân vật Trung Quốc đã lên tiếng biện minh cho hành động
của Trung Quốc. Dĩ nhiên họ được lệnh của nhà nước Bắc Kinh mới được
quyền lên tiếng.
Thứ nhứt,
đại biện lâm thời Trung Quốc ở Indonesia, ông Lưu Hồng Dương, có bài
đăng trên báo Jakarta Post(Indonesia), xác định rằng quân đảo Tây Sa
[tức Hoàng Sa] là lãnh thổ của Trung Quốc.
Bài báo viết: “Trong tuyên bố ngày 14-9-1958, thay mặt chính phủ
Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và
các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.” Lưu Hồng Dương, tác giả bài báo, còn viết: “Việt Nam rõ ràng vi phạm nguyên tắc “estoppels”. [không được nói ngược].
Người
thứ hai là tiến sĩ Ngô Sĩ Tồn, giám đốc Viện Nghiên cứu Nam Hải của
Trung Quốc, trả lời phỏng vấn hãng tin Deutsch Welle (DW) của Đức, được
đưa lên Net ngày 20-5. Ông nầy nói như sau: “Năm 1958, thủ tướng
Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã công nhận chủ quyền Trung Quốc đối
với Tây Sa và Nam Sa trong công hàm gửi thủ tướng Trung Quốc Chu Ân
Lai... Hà Nội
chỉ thay đổi lập trường sau khi đất nước thống nhất năm 1975. Nhưng
theo nguyên tắc estoppel, Trung Quốc không tin rằng Việt Nam có thể thay
đổi lập trường về vấn đề chủ quyền.”
4. Cộng sản Việt Nam chống chế
Trả
lời những cáo buộc trên đây của Trung Quốc, trong cuộc họp báo ngày
23-5-2014 tại Hà Nội, ông Trần Duy Hải, phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới
Quốc gia, cho rằng công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 không
có giá trị pháp lý về vấn đề chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Ông
Hải nói: “Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ
không đề cập tới Hoàng Sa, Trường Sa, vì thế đương nhiên không có giá
trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa... Bạn không thể cho ai thứ mà bạn
chưa có quyền sở hữu, quản lý được. Vậy điều đó càng khẳng định công
văn của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý...”
Ngoài
ra, còn có đại sứ của hai phía Trung Cộng và Việt Cộng ở Hoa Kỳ tham
gia cuộc tranh cãi, lên tiếng bênh vực lập trường của chính phủ mình.
Báo chí hai nước cũng đưa tin và bình luận cáo buộc đối phương mà trước
đây ít khi thấy. Lời qua tiếng lại còn nhiều, nhưng đại khái lập trường
hai bên là như
vậy.
5. Hiểu cách nào
Bản
tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đưa ra hai chủ điểm: 1) Xác định
hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý. 2) Mặc nhiên xác nhận chủ quyền
của Trung Quốc trên một số quần đảo trên Biển Đông trong đó có hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vốn của Việt Nam từ lâu đời.
Dầu công hàm Phạm Văn Đồng không có chữ Hoàng Sa và Trường Sa như ông Trần Duy Hải nói, nhưng công hàm Phạm Văn Đồng “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ
nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc”, có nghĩa là nhà nước Bắc Việt cộng sản công nhận hai chủ điểm của bản tuyên bố của Trung Quốc.
Trần Duy Hải còn nhấn mạnh rằng sau hiệp định Genève, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hòa và “Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được.”
Ông Hải nói chuyện lạ lùng như một người nước ngoài. Nếu Nam Việt
không phải là một phần của Việt Nam, thì tại sao Bắc Việt lại đòi “Chống Mỹ cứu nước” hay “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.”?
Khi xâm lăng Nam Việt, thì Bắc Việt nhận Nam Việt là một phần của Việt
Nam. Khi cần xin viện trợ thì Bắc
Việt bảo rằng đó là của Nam Việt, rồi Bắc Việt dùng để trao đổi với
nước ngoài? (Một giải thích lạ lùng hơn nữa là bà Nguyễn Thị Thụy Nga
(Bảy Vân), vợ Lê Duẫn, trả lời trong cuộc phỏng vấn năm 2008 của đài BBC
rằng “ngụy nó đóng ở đó nên giao cho Trung Quốc quản lý Hoàng Sa.” (CTV Danlambao -danlambaovn.blogspot.com)
Một
nhà nghiên cứu trong nước còn nói rằng công hàm Phạm Văn Đồng không
thông qua quốc hội nên không có giá trị pháp lý trong bang giao quốc tế.
(BBC Tiếng Việt 21-5-2014, “Hoàn cảnh lịch sử công hàm 1958”).
Khái
niệm nầy chỉ đúng với các nước tự do dân chủ. Trong các nước tự do
dân chủ, tam quyền phân lập rõ ràng. Những quyết định của hành pháp
phải được lập pháp thông qua, nhất là những hiệp ước về lãnh thổ, lãnh
hải phải có sự đồng ý của quốc hội. Tuy nhiên dưới chế độ cộng sản,
cộng sản không cai trị theo luật pháp, mà cộng sản thống trị theo nghị
quyết của đảng cộng sản. Với cộng sản, tam quyền không phân lập mà tam
quyền đồng quy vào trong tay đảng CS, nên CS chẳng cần đến quốc hội.
Chủ trương nầy được đưa vào điều 4 hiến pháp cộng sản mà ai cũng biết.
Trung
Quốc là một nước cộng sản từ năm 1949. Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng
thống trị đất nước họ như đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN). Vì vậy, giữa
hai nước cộng
sản với nhau, Trung Quốc rất am hiểu truyền thống của nhau, am hiểu
ngôn ngữ cộng sản với nhau. Chính công hàm của Phạm Văn Đồng cũng viết
theo ngôn ngữ cộng sản: “Thưa Đồng chí Tổng lý”. Vì vậy, Trung
Quốc hiểu công hàm Phạm Văn Đồng theo cách thống trị đất nước của nhà
nước cộng sản, nghĩa là quyết định của đảng cộng sản là quyết định tối
hậu, trên tất cả, chẳng cần gì phải có chuyện quốc hội phê chuẩn.
Hồ
Chí Minh và đảng Lao Động (tức đảng CSVN ngày nay) ủng hộ hay không ủng
hộ bản tuyên bố về hải phận của Trung Quốc, dân chúng Việt Nam không
cần quan tâm. Tuy nhiên, đối với dân chúng Việt Nam, chuyện Phạm Văn
Đồng cùng Hồ Chí Minh và
đảng Lao Động tán thành “quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa],... quần đảo Nam Sa [Trường Sa],... thuộc Trung Quốc” là một hành vi bán nước và phản quốc.
6. Liên minh quân sự
Trước
hiểm họa Trung Quốc đe dọa ngày nay, vì Việt Nam không đủ sức chống lại
Trung Quốc nên có ý kiến cho rằng nhà nước CSVN cần phải liên minh với
nước ngoài để chống Trung Quốc. Ví dụ liên minh với Hoa Kỳ hay với khối
ASEAN chẳng hạn.
Tuy nhiên, trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh vào ngày 25-8-2010, trung tướng Nguyễn Chí
Vịnh, thứ trưởng Quốc phòng CSVN đã đưa ra chủ trương “ba không” của
đảng CS và nhà nước CSVN là: Không tham gia liên minh quân sự, không
cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự và không cùng một nước khác chống lại
nước thứ ba. (Xem Internet: chủ trương ba không của CSVN.)
Về
phía Hoa Kỳ, thì vừa qua, ngày 28-5-2014, trong bài diễn văn trình bày
tại lễ tốt nghiệp Học viện Quân sự WestPoint, New York, tổng thống Obama
đưa ra nét căn bản về chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ: “Hoa
Kỳ sẽ sử dụng quân đội, đơn phương nếu cần thiết, nếu cần cho lợi ích
cốt lõi của chúng ta - trong trường hợp người dân chúng ta bị đe dọa,
nguồn sống chúng ta gặp nguy hiểm hay an ninh của các nước
đồng minh bị thách thức...” (BBC Tiếng Việt, 29-5-2014.)
Chủ
trương sử dụng sức mạnh để bảo vệ lợi ích cốt lõi của nước mình không
phải là chủ trương riêng của Hoa Kỳ hay của một nước nào mà là chủ
trương chung của tất cả các nước trên thế giới. Nước nào cũng vì quyền
lợi của nước mình mà thôi. Vậy thử hỏi Hoa Kỳ có quyền lợi gì khi giúp
Việt Nam (90 triệu dân) nhằm đổi lại với việc Hoa Kỳ giao thương với
Trung Quốc (hơn 1 tỷ dân)? Ngoài ra, Hoa Kỳ khó trở thành đồng minh của
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chỉ vì một lý do đơn giản là
CHXHCNVN là một nước cộng sản vi phạm nhân quyền một cách trầm trọng.
Hơn
nữa, Hoa Kỳ mới liên minh trở lại với Phi Luật Tân để ngăn chận Trung
Quốc từ xa. Vì Phi Luật Tân ở xa, nằm phía bên kia bờ Biển Đông phân
cách Phi Luật Tân với lục địa Trung Quốc, nên an toàn hơn cho Hoa Kỳ.
Vì vậy, Hoa Kỳ có cần liên minh với CSVN hay không?
Các
nước trong khối ASEAN cũng không khác gì Hoa Kỳ, tập họp với nhau vì
quyền lợi kinh tế của mỗi nước. Có nước chẳng ưa thích gì Việt Nam như
Cambodia, Lào vì truyền thống lâu đời. Có nước chẳng có quyền lợi gì
trong vấn đề Việt Nam và Biển Đông như Miến Điện, Mã Lai. Đó là chưa
nói hầu như các nước ASEAN đều quan ngại thế lực của Trung Quốc về nhiều
mặt và
các nước ASEAN còn muốn Việt Nam luôn luôn ở thế yếu kém, bị động để
đừng quay qua bắt nạt các nước láng giềng.
Như
thế, chỉ là ảo tưởng nếu nghĩ rằng nhà nước CSVN có thể liên minh với
bất cứ nước nào để chống Trung Quốc. Trung Quốc dư biết điều đó. Cộng
sản Việt Nam phải tự mình giải quyết lấy bài toán của mình do những sai
lầm của Hồ Chí Minh và đảng CSVN gây ra. Nhờ Trung Quốc đánh Pháp chẳng
khác gì nhờ một tên ăn cướp đuổi một kẻ ăn trộm. Còn nhờ Trung Quốc
chống Mỹ không phải là giải pháp để cứu nước mà là con đường dẫn đến mối
nguy mất nước...
7. Phải quyết định
Lịch
sử cho thấy từ bao đời nay, dân tộc Việt Nam luôn luôn chiến đấu để bảo
vệ lãnh thổ, chống lại các cuộc xâm lăng của nước ngoài. Ngược lại, từ
giữa thế kỷ 20, đảng CSVN cướp được chính quyền năm 1945, đã dùng đất
đai do tổ tiên để lại như một vật trao đổi nhằm mưu cầu quyền lực, mà
công hàm Phạm Văn Đồng là một ví dụ điển hình.
Muốn
thoát khỏi tấn bi kịch hiện nay, một trong những việc đầu tiên là phải
vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng, chấm dứt sự thừa nhận của Phạm Văn
Đồng và đảng Lao Động tức đảng CSVN đối với tuyên bố của
Trung Quốc.
Muốn
vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng thì phải vô hiệu hóa chính phủ đã ký
công hàm. Phạm Văn Đồng đã chết. Chính phủ Phạm Văn Đồng không còn.
Tuy nhiên, chính phủ thừa kế chính phủ Phạm Văn Đồng còn đó ở Hà Nội.
Vậy chỉ còn cách giải thể nhà nước cộng sản hiện nay ở Hà Nội mới có thể
vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng. Có hai cách giải thể:
Thứ nhứt,
đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay, hậu thân của đảng Lao Động trước đây,
thừa kế chính thức của nhà nước do Phạm Văn Đồng làm thủ tướng, phải tìm
cách tự lột xác như ve sầu lột xác (kim thiền thoát xác), mới phủ
nhận những điều do nhà cầm quyền cũ ký kết. Trên thế giới, đã có hai
đảng cộng sản theo thế kim thiền thoát xác là trường hợp Cộng sản Liên
Xô với Yeltsin và cộng sản Cambodia với Hun Sen.
Vấn
đề là những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay có vì sự sống còn
của đất nước, có chịu hy sinh quyền lợi của đảng CS, có chịu giải thể
đảng CS như Yeltsin đã làm ở Liên Xô, để cùng dân tộc tranh đấu bảo vệ
non sông?
Thứ hai,
nếu những nhà lãnh đạo cộng sản vẫn cương quyết bám lấy quyền lực,
cương quyết duy trì đảng CSVN, thì chỉ còn con đường duy nhứt là toàn
dân Việt Nam phải tranh đấu lật
đổ chế độ cộng sản. Cuộc tranh đấu sẽ rất cam go, khó khăn, nhưng hiện
nay đất nước chúng ta đang đứng bên bờ vực thẳm, đang lâm vào thế cùng.
Cùng đường thì phải tranh đấu để biến đổi và tự cứu mình.
Vậy
chỉ còn con đường duy nhứt là chấm dứt chế độ CSVN để chấm dứt công hàm
Phạm Văn Đồng, đồng thời chấm dứt luôn những mật ước giữa đảng CSVN với
đảng Cộng Sản Trung Quốc từ thời Hồ Chí Minh cầu viện, qua thời Thành
Đô và cho đến hiện nay.
Đã đến lúc phải quyết định dứt khoát: Hoặc CSVN theo thế “ve sâu lột xác”, hoặc CSVN phải bị lật đổ mà thôi. Nếu không,
hiểm họa một thời kỳ Hán thuộc mới đang chờ đợi Việt Nam.
(Toronto, 5-6-2014)
No comments:
Post a Comment