Cuối tuần con Chung từ Giessen
đến thăm tôi. Thấy mặt nó buồn xo, tôi hỏi, mi lại có chuyện
chi mà ngó buồn rứa. Mắt nó rơm rớm, anh Đô bị kỷ luật rồi.
Răng rứa?. Dạ, nghe nói anh không tuân theo chỉ thị của cấp trên,
tự chỉ huy tàu mình đụng chạm với tàu Hải Giám của Trung
Quốc, nên bị tước danh hiệu Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang chuyển
công tác về đồn Biên Phòng ở Lao Bảo rồi. Tôi nghe nó nói, tức
không chịu nổi, văng tục, con bà nó, thằng Đô đẻ ra dưới nước,
chuyển hắn lên rừng công tác, khác chi chặt tay, chặt chân hắn
chớ. Con Chung rầu rầu, rứa đó, rứa đó...chú nờ.
Con Chung người cùng quê tôi,
là chỗ quen biết từ xưa, nên khi nó sang làm Master bên Đức,
thì chú cháu thường liên lạc với nhau. Hơn hai năm trước, tôi
đọc trên báo mạng, có mẩu tin ngắn nhắc đến chiến công của
trung tá anh hùng lực lượng vũ trang Trần Quang Đô. Tôi gọi điện
thoại hỏi con Chung, có phải thằng Đô nhà mình không?. Con Chung
tự hào, dạ, đúng eng nớ đó, eng nớ là niềm tự hào của bộ
đội Hải Quân trong việc anh dũng kiên cường bảo vệ biển đảo
của Tổ Quốc đó chú nờ. Tôi hả dạ, sướng hè, sướng hè...,
thằng ni khá hè, khá hè...
Miệng thì nói sướng hè,
sướng hè...nhưng trong thâm tâm tôi có chút hổ thẹn. Thằng Đô con
nhà nghèo, ít học vậy mà có chiến công hiển hách, biết cống
hiến cả đời trai cho sự nghiệp bảo vệ biên cương, biển trời
của Tổ Quốc. Những thằng có học như tụi tôi, chỉ được cái ăn
tục nói phét, chuyên đánh giặc mồm. Đã mang thân tha hương, làm
cu ly cho ngoại bang, chẳng có công sức gì trong việc bảo vệ non
sông, lại còn dở thói la cà trên mạng, tha hồ chửi đổng, khoa
môi múa mép làm kẻ sĩ, ra vẻ như là những nhà ái quốc chí
sĩ vĩ đại lắm không bằng.
Tôi lại cứ hỏi đi hỏi lại
con Chung, họ chuyển anh mi lên Lao Bảo à, là chuyển anh mi lên
rừng, lên đó thì anh mi mần được cái chi chớ, tước danh hiệu
anh hùng thì cũng được, ẻ quẹt vô ba thứ đó, nhưng răng không
để cho hắn ở biển chớ, kỷ luật hắn thì hạ cấp bậc hắn được
rồi, mắc mớ chi đày hắn lên rừng chớ, con bà chúng chớ, ngu
ngu...ngu..ngu...hỏi một thôi một hồi, chửi đổng một thôi một
hồi, rồi tôi rưng rưng như ngấn lệ, thở dài, con bà nó, lịch
sử lại lặp lại à...
Con Chung tò mò, lịch sử
lặp lại là răng hả chú. Cảm thấy con Chung muốn biết điều gì,
tôi đánh trống lãng khỏa lấp, thì tau nói rứa thôi, lặp lại
là lặp lại chớ răng. Nhưng mà lặp lại cấy chi chơ? Hình như
chú có chuyện chi giấu tụi con. Tôi quạu, có chuyện cứt chi mà
dấu, tụi mi con nít, lo chuyện học hành đi, nghĩ chi ba cái
chuyện tầm phào cho nhọc xác. Con Chung thấy tôi quạu, im re.
Còn tôi thì thở dài thườn thượt. Cuốn phim cuộc đời 35 năm
trước, từ từ tái hiện lại trước mắt tôi…
... Năm 1977, cuộc chiến huynh
đệ tương tàn đã kết thúc hai năm. Nhưng trên quê tôi, hình như
vẫn chưa phai mùi súng đạn và chết chóc. Đồng ruộng làng quê
xơ xác điêu tàn, thanh niên trai tráng phần chết trên chiến
trường, phần biệt xứ đi nơi khác làm ăn hết. Bão lụt, hạn hán
triền miên. Dư âm của cuộc chiến thương đau chưa phai nhạt, thì
ám ảnh của sự đói rét lại bắt đầu phủ trùm xuống làng quê
nghèo của chúng tôi.
Nhà tôi neo người, Ba tôi đau
yếu triền miên. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo ấy của thời cuộc,
tôi đành bỏ học, đi làm xã viên hợp tác xã thủ công nghiệp,
đúc gạch và nấu vôi, phụ giúp gia đình trong cơn bỉ cực.
Thuở ấu thơ tôi là đứa trẻ
ngang tàng, nghịch ngợm, nhưng lại hiếu học, hiếu đọc và rất
tự trọng. Buộc phải bỏ học vì hoàn cảnh, tôi đau đớn lắm, nên
rút mình vào trong cái vỏ ốc mặc cảm. Tôi không quan hệ với
bạn bè cùng trang lứa nữa, mà sống thu lại với thế giới của
riêng mình.
Ban ngày úp mặt xuống dòng
sông Kiến Giang, lặn cát, lặn sạn về cho hợp tác xã đúc gạch
táp lô. Tối về tôi lại mò mẫm ra đồng bắt cua, nơm cá, đốt
lửa giữa đồng nướng ăn chóng đói. Hầu như suốt mùa hè chẳng
có đêm nào tôi ngủ ở nhà.
Gần nhà tôi, phía ngoài
đồng, giữa ranh giới hai làng Hoàng Giang và Phan Xá, có một
cồn đất cao. Nơi đó trong chiến tranh, có một ụ pháo 12 ly 7,
của dân quân, bấy giờ đã thành một cồn hoang. Ban đêm tôi thường
ra đó, bẻ cành phi lao lót ổ nằm ngủ, vừa mát mẻ, vừa yên
tĩnh, tôi tha hồ chìm đắm vào thế giới mộng mơ của tuổi 17
giữa cánh đồng rì rào biển lúa.
Một đêm, tôi đang lúi húi,
móc buồng chuối lùn mà tôi đầo dú với lá sầu đâu trong hóc
đất nơi cồn hoang ấy để đánh chén bữa khuya, thì nghe tiếng hô
từ dưới hói (lạch nước) vang lên, ai, đứng yên giơ tay lên, nhúc
nhích là bắn. Mặc dầu tiếng hô to, bất chợt, nhưng chẳng làm
tôi giật mình. Vì ban đêm, trên cánh đồng này, trên cồn hoang
này, tôi là chúa tể. Là chúa tể thì còn sợ ai nữa chứ. Một
phần tôi cũng biết tiếng hô ấy là của ai, nên bình thản, hê hê
hê...có súng ẻ mô mà bắn. Tiếng nói từ dưới hói lại vọng
lên, con cái nhà ai, giờ ni mần chi ngoài ni, đứng đó không được
chạy nghe chưa. Tôi lại hê hê hê..., tui không đứng thì eng mần
chi tui, eng bay theo à. Tiếng ừng ực uất nghẹn từ dưới hói
lại vang lên, mi đứng đó, coi tau nì...
...Xoẹt, xoẹt...tiếng thuyền
nan rẽ cỏ ào ào vút tới. Ùm...tiếng người nhảy vội xuống
nước. Xoẹt xoẹt..tiếng kéo lê vội vàng trên cỏ. Cuối cùng rồi
anh cũng trườn đến được gò đất tôi đang ngồi. Anh quì trên đôi
chân cụt của mình, tay dơ cao cái chầm chỉa vào tôi, ai, đứng
yên giơ tay lên, không tôi bắn...Tôi vẫn thản nhiên nhồm nhoàm nhai
chuối, hì hì...báo cáo đồng chí Đại úy, đồng chí có mô
súng mà bắn hì hì....mời đồng chí Lấu ngồi xuống, mần mất
trấy chuối đi hè. Anh vẫn còn tức, lầu bàu, mi là con cái nhà
ai mà biết tau. Đồng chí không biết tui, chớ cả cái huyện ni
không ai là không biết đồng chí Đại úy, đại đội trưởng đặc
công nước Trương Quang Lấu cả. Anh, lết lại gần tôi và ngồi
xuống, cười, hì hì, là trung úy, đại đội phó thôi. Anh nói.
Và không cần biết tôi con cái nhà ai, giờ này ra đồng ngồi làm
chi, anh bắt đầu thao thao kể về những trận đánh đầy huyền
thoại của anh trong trung đoàn 27 Triệu Hải. Không biết những
trận đánh ấy thực hư ra sao, nhưng chuyện anh kể về Đại đội
đặc công nước của anh ở Cửa Việt, nghe cực kỳ hấp dẫn và thú
vị, nên tôi cứ há hốc mồm ra nghe anh kể, thỉnh thoảng lại
thít thà.. rứa à, rứa à….
Chuyện chiến đấu của anh
trong Trung đoàn 27 Triệu Hải với chiến dịch 81 ngày đêm Thành
Cổ Quảng Trị là có thật. Chuyện anh xém được đề nghị truy
phong anh hùng lực lượng vũ trang là có thật, ai cũng biết, ít
nhất là theo lời những người khác kể lại. Nhưng chuyện, vì
sao anh bị cụt hai chân, vì sao anh trở thành con ma đồng, vất
vưỡng kiếm sống, mà không có một chế độ chính sách đãi ngộ
gì thì ít ai biết. Ai hỏi, thì mặt anh dài thườn thượt, bảo
đang làm hồ sơ hưởng chế độ thương binh.
Mãi sau này, khi quen thân
anh, qua những câu chuyện của anh, chắp vá lại, tôi mới biết rõ
ràng là vì sao anh ra nông nổi này
Quảng Trị giải phóng, nhưng
chiến tranh vẫn chưa kết thúc. Anh và đại đội của anh, nhận
lệnh ở lại bảo vệ Cửa Việt. Thời đó, không những dân đói, mà
bộ đội cũng thiếu ăn. Anh thương đồng đội, bày trò chế mìn
tự tạo, ném xuống sông bắt cá về cải thiện. Một lần anh cùng
một đồng đội đi ném mìn, bị cướp dây cháy chậm, mình nổ trên
tay, bạn anh chết tan xác, anh chỉ bị thương, sau đó bị kỷ
luật, thuyên chuyển về huyện đội Hướng Hóa.
Về Hướng Hóa, anh lại bỏ
gác, lò mò vác súng đi săn thú cải thiện cho anh em. Lớ ngớ
dẫm phải mìn sót lại, bị cụt cả hai chân. Một chân cụt ngang
đầu gối, một chân cụt gần đến bẹn. Anh bị tước quân tịch,
đuổi về địa phương, nên không được hưởng một chế độ gì cả.
Anh người làng Hoàng Giang,
nhưng nhờ người mai mối, lấy được chị Diếc, có tật sứt môi,
hở hàm ếch ở làng Qui Hậu bên kia sông. Từ ngày lấy vợ, anh
chuyển sang ở bên nhà vợ. Vợ anh làm nghề chằm nón, thu nhập
thấp. Anh sắm một chiếc thuyền nan, một bộ câu cặm và từ đó
gắn bó với cánh đồng Xuân Thủy về đêm.
Anh di chuyển bằng hai tay
chầm với chiếc thuyền nan nhỏ bé của mình. Vậy mà chẳng có
nơi nào trên những cánh đồng bao la của Hai Huyện là anh không
biết tới. Khi lên bộ, thì anh bó cái chân cụt bằng một cái mo
cau. Hai tay anh chống hai bên, phi cái chân cụt bó mo tới trước,
rồi quăng mình, lết người theo. Anh di chuyển khó khăn, nhưng khi
cần nhanh, cũng nhanh ra phết.
Trên cạn anh là vậy, nhưng
khi xuống nước, dù cụt hai chân, nhưng anh rất xứng danh với hai
chữ Thủy Thần. Về lặn lội, tôi cũng liệt vào quái thủ. Có
thể lặn chay, tay không bắt cá bống dưới đáy sông được, nhưng so
với anh là cái đinh. Nhìn anh, bơi lặn, lườn trượt, toài bò đi
vun vút giữa bùn sình, lau sậy mà mê. Không thể nói anh là
rái cá được, mà phải nói là Thủy Thần thì mới đúng.
Rồi từ cái đêm hôm đó, tôi
và anh trở thành đôi bạn thân. Dạo tôi quen anh, là vợ anh mới
đẻ thằng Đô. Nhà anh túng quẩn lắm. Tôi cũng chẳng khá gì hơn,
nên không giúp gì được anh. Chỉ còn cách là hàng đêm, theo
giúp anh đi thăm câu. Hàng trăm cái cần câu cặm, cắm khắp các
bờ ruộng, bờ kênh. Phải năng đi thăm câu, mới có cơ hội bắt
được nhiều cá. Bởi nếu không thăm câu thường, rắn đẻn, rắn
nước... chúng tợp hết trước mồi, nên cá chẳng có mà mắc câu.
Anh thân tôi, mến tôi là vì
tôi biết lắng nghe những trận đánh của anh và đồng đội trên
mặt trận Quảng Trị mà anh kể đi kể lại hàng trăm lần. Ngược
lại anh cũng biết ngồi gật gù nghe tôi đọc thơ. Hồi đó tôi
cũng đã biết tý tỏm làm thơ rồi. Nhưng chẳng bao giờ hó hé
cho ai biết, sợ chúng cười. Chỉ với anh là tôi mới dám mạnh
dạn đọc cho anh nghe. Có lần ngồi trên cồn hoang, dưới anh trăng
man mát tỏa xuống đồng lúa rì rào, tôi đọc thơ cho anh nghe,
rồi hỏi, hay không?, hay không?...anh gật gù, hay chớ, hay
chớ...mi mần mà không hay, thì ai mần hay nữa. Tôi hỏi, hay
răng?, hay răng?...Anh cười hì hì...cần ẻ chi biết răng là hay,
mần được thơ là hay rồi... Có lẽ anh là đọc giả đầu tiên và
cũng là đọc giả cuối cùng hiểu được thơ tôi: „Cần ẻ chi biết
răng là hay, mần được là hay rồi“ (...hehehehe...)
Thân vậy, nhưng nhiều khi tôi
và anh cũng có giận nhau. Tôi khá kiên nhẫn để ngồi nghe anh kể
chuyện chiến đấu của anh. Nhưng cực ghét cái ý tưởng, là anh
sẽ nhờ bạn bè đồng đội cũ chứng nhận chiến công của anh để
xin lại cái chế độ thương binh. Tôi nói, anh đừng có mơ tưởng
chuyện hão huyền, trong chiến tranh dưới mũi tên hòn đạn, cạnh
kề bên cái chết, con người mới tỏ ra là vì nhau thôi, chứ thời
bình, mạnh thằng nào, thằng nớ sống, ai mà quan tâm chứng
nhận cho anh được làm thương binh. Những lúc đó anh đỏ mặt tía
tai, sừng sộ quát tôi, mi chưa từng ở trong quân ngũ, thì mi
đừng xúc phạm đến tình cảm của người chiến sĩ. Tôi nói,
chiến sĩ cái cục cứt. Anh giận tôi.
Có lần đang đọc thơ cho anh
nghe, anh nói, số mi rồi khổ thôi út ạ, lãng mạn kiểu nớ, lấy
chi mà đút vô miệng út ơi. Tôi nói, thơ là thơ, thơ là dành cho
tâm hồn, chứ thơ đâu phải dành cho cái dạ dày. Anh nói, tâm
hồn cái lỗ khu, đói rã họng ra thì có tâm hồn mần ẻ chi. Tôi
giận anh.
Tôi và anh như hai con ma
đồng. Ban ngày thì chẳng thấy mặt đâu. Cứ về khuya thì lại
vật vờ trên cồn hoang, cười nói, đùa giỡn với nhau suốt cả
đêm.
Tôi đi lặn cát, lặn sỏi
dưới sông. Nhiều người quen biết, nhờ lặn dùm đò cát, đò sạn,
rồi biếu lại nắm xôi, cút rượu. Xôi thì tôi ăn, còn rượu thì
tôi không uống được, tôi để dành, đêm mang ra cho anh. Bình
thường, thì anh vui vẻ cười nói, bất cần đời, coi trời bằng
vung. Nhưng khi rượu vào thì anh lại ngồi thở dài và khóc.
Những khi ấy, anh hay gọi tên đồng đội và khóc hu hu như trẻ
con. Anh hay nói, tau có què có cụt, thì vẫn còn có cái mạng,
dù đói rách, tàn phế, vẫn còn có vợ có con, còn tụi bay, Lê
ơi, Hiếu ơi, Thành ơi...tụi bay, giờ nằm dưới gò cát Triệu
Lăng, dưới đáy sông Thạch Hãn..., có lạnh lắm không, có ai thắp
cho tụi bay nắm nhang không...hu..hu...
Lần khác thì anh đi ăn giỗ,
để dành nắm xôi và vài miếng thịt phay mang ra cho tôi. Tôi bày
xôi thịt ra, bảo anh cùng ăn. Anh vỗ bụng bành bạch bảo, mi ăn
đi, tau mần một bụng căng rồi nì. Tôi ăn, anh ngồi nhìn, nuốt
nước miếng ừng ực. Tôi giả vờ no, không ăn nữa, nhường lại cho
anh. Lúc đó anh mới ngấu nghiến ăn, như chưa từng biết xôi, biết
thịt phay là gì. Những lúc đó, cổ tôi nghèn nghẹn, mắt tôi
cay cay... Tôi vỗ vỗ vai anh, có những hạt xôi, những miếng
thịt, mà cả một đời người cũng không tận hưởng hết được hương
vị ngầy ngậy của nó, là những miếng xôi, miếng thịt này đây.
Anh gật gù, mi lại mần thơ à....
Rồi một ngày đầu thu năm
đó, trên cồn hoang giữa cánh đồng, nơi có ụ pháo thời chiến
tranh để lại. Chỉ còn lại tôi với nỗi đau xé ruột. Anh Lấu
chết rồi. Thủy Thần đã chết đuối trên dòng sông vào mùa mưa
lũ.
Dòng Kiến Giang vốn hiền
hòa êm dịu. Nhưng những khi lũ tràn về thì lại cuồn cuộn rất
hung dữ. Dòng nước bạc từ dãy Trường Sơn ào đổ xuống, mang
theo những mảng cành cây khô, rều, rác..lao vùn vụt về xuôi.
Lúc đó vợ anh đang con có bầu con Chưng. Anh sợ vợ nằm nơi vào
mùa đông giá buốt, không có củi sưởi, nên lao thuyền nan ra giữa
dòng nước bạc vớt cành khô. Một khúc gỗ lớn lao vào thuyền
anh. Thuyền lật và anh cũng chìm theo dòng nước cuộn xoáy.
Người ta thấy anh chới với giữa dòng bão lũ, nhưng không thể
nào cứu anh kịp.
Khi nước rút, cũng chẳng
thể nào tìm được xác anh. Có lẽ dòng nước đã đưa anh về với
biển Mẹ bao la. Chị Diếc, mang bụng bầu, dắt thằng Đô mới chập
chững biết đi, ra bờ sông ngồi khóc mấy ngày mấy đêm. Tôi đứng
bên này sông, nhìn sang lòng quặn thắt từng khúc ruột. Đêm đó
tôi ra cồn hoang, đắp một mô đất, cắm mấy que nhang, rồi đứng
nghiêm, dơ tay chào theo điều lệnh quân đội, báo cáo đồng chí
thương binh, đại úy, đại đội trưởng đại đội ba, tiểu đoàn bốn,
trung đoàn anh cả đỏ hai mươi bảy Triệu Hải, anh hùng lực
lượng vũ trang quân đội nhân dân Việt Nam, tôi có mặt, chúc đồng
chí Thương Binh anh hùng về với đất mẹ và an giấc ngàn thu.
Trong chiến tranh, anh, dũng
cảm kiên cường vì đồng đội. Lúc thời bình, anh vì đồng đội
mà bị tàn phế. Lúc trở thành dặt dẹo như con ma đồng, anh
cũng chỉ nghĩ về đồng đội. Nhưng lúc anh về với đất, về với
nước, chỉ có tôi, một con ma đồng khác gọi anh là đồng
chí.....
Rồi cuối mùa thu năm đó, tôi
cũng biệt xứ ra đi, biền biệt cho đến bây giờ, khi gặp được
con Chung trên nước Đức. Tôi mới biết thêm về tình hình thằng Đô
và chị Diếc. Chị Diếc vẫn còn sống, vẫn làm nghề chằm nón
ở làng Qui Hậu. Sau ngày anh Lấu chết, chị đẻ con Chưng, bây
giờ đổi thành tên Chung. Thằng Đô, lớn lên học hết lớp chín
thì bỏ học, về làm đồng giúp mẹ nuôi con Chung ăn học. Sau đó
đi nghĩa vụ quân sự, vào binh chủng Hải Quân.
Hai năm trước thằng Đô được
phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang, nhờ thành
tích bám đảo, bảo vệ biển trời của Tổ Quốc. Vừa rồi, lại
nghe con Chung nói, thằng Đô bị kỷ luật, tước mất danh hiệu anh
hùng, vì không tuân lệnh cấp trên, chỉ huy tàu mình đụng độ
với tàu Trung Quốc. Và bị chuyển lên làm lính biên phòng trên
Lao Bảo.
Đúng vậy, tôi lo lắng cho thằng Đô, vì tôi sợ lịch sử lại lặp lại sự tích anh hùng thời cận chiến như cha nó.
15.11.12