Tên
hắn là Khải. Hắn học với tôi năm lớp 11 tại trường Tân Phương, Gò Vấp.
Nhà hắn ở trại định cư Cái Sắn nằm giữa hai tỉnh Long Xuyên và Rạch Giá.
Hình như bố mẹ hắn có quen với một ông trùm họ đạo ngày trước cũng ở
Cái Sắn, sau lên Sài Gòn, trông coi giúp Cha sở ở nhà thờ Ngã năm Bình
Hòa, Gia Định. Rồi hắn lên Sài Gòn, nhờ ông trùm đó xin với Cha cho ở
nhờ ngoài hành lang nhà thờ, làm người kéo chuông, trông coi, quét
dọn... để có chỗ ăn ở, đi học. Cha thấy hắn ngoan ngoãn, lễ phép, nhất
là trước đây lại cùng họ đạo với ông trùm nên rất vui lòng. Lúc ấy, tại
Xóm Gà Gia Định có trường Tân Phương của ông Phan Ngô mới mở, dạy tới
lớp Đệ Nhị (tức lớp 11 bây giờ). Cha nói với ông Phan Ngô xin cho hắn
học miễn phí để chuẩn bị đi thi Tú tài I. Phần vì trường mới mở đang cần
học sinh, phần vì nể lời Cha nên ông Phan Ngô cũng đồng ý. Ngoài ra,
Cha thấy hắn ham học ngoại ngữ, giỏi tiếng Anh nên mỗi tháng cho tiền
hắn học thêm Anh văn cao cấp ở Hội Việt-Mỹ đường Mạc Đĩnh Chi, Tân Định.
Như vậy, ngoài việc học ở trường Tân Phương vào các buổi sáng, cứ đến
buổi chiều, mỗi tuần ba lần, hắn cuốc bộ từ Gia Định lên Tân Định để học
tại Hội Việt-Mỹ. Cha cũng thích ngoại ngữ, buổi tối hắn thường chỉ dẫn
thêm tiếng Anh cho Cha.
Trường hợp tôi thì lại khác. Nhà tôi cũng nghèo, mẹ tôi làm thợ dệt nhưng tôi thi đậu hạng nhì vào lớp Đệ Thất (lớp 6 bây giờ) trường Nguyễn Trãi nên được học bổng, mỗi tháng 300 đồng, tương đương với một chỉ vàng lúc bấy giờ, việc sách vở, học hành đỡ phải lo lắng.
Trường hợp tôi thì lại khác. Nhà tôi cũng nghèo, mẹ tôi làm thợ dệt nhưng tôi thi đậu hạng nhì vào lớp Đệ Thất (lớp 6 bây giờ) trường Nguyễn Trãi nên được học bổng, mỗi tháng 300 đồng, tương đương với một chỉ vàng lúc bấy giờ, việc sách vở, học hành đỡ phải lo lắng.
Ba
năm sau, khi bắt đầu lên đến lớp Đệ Ngũ (lớp 8), tôi và hai bạn khác
trong lớp rủ nhau “học nhảy”: Trường Nguyễn Trãi lúc đó chưa có cơ sở
nên phải học nhờ tại trường Tiểu học Đa Kao ở số 94 đường Phan Đình
Phùng (bây giờ là đường Nguyễn Đình Chiểu). Tất cả các lớp đều học buổi
chiều, còn buổi sáng thì học sinh trường Đa Kao học. Buổi sáng được
nghỉ, ba đứa chúng tôi đóng học phí học lớp Đệ Tứ (lớp 9) trường Cộng
Hòa của giáo sư Phạm Văn Vận ở đường Pasteur để thi Trung học Phổ thông,
nếu đậu sẽ sớm được một năm, cái đó kêu là “học nhảy”. Nhà nghèo, nên
dù học thêm lớp Đệ Tứ trường tư nhưng tôi vẫn tiếp tục học lớp Đệ Ngũ
trường công để được học bổng và đề phòng nếu rớt Trung học thì vẫn có
chân trong trường công.
Cuối
năm ấy, cả ba đứa chúng tôi đều đậu Trung học, rồi thi vào lớp Đệ Tam
(lớp 10) trường Hồ Ngọc Cẩn, tức lại trở lại trường công. Tôi đậu hạng 5
trong số 52 học sinh thi đậu, hơi thấp, không được học bổng vì Bộ Quốc
gia Giáo dục chỉ cho mỗi lớp có 3 người, từ hạng 1 tới hạng 3.
Hai anh bạn yên tâm học lớp Đệ Tam tại Hồ Ngọc Cẩn, còn tôi, nhảy được một năm nhưng mất học bổng, tôi ân hận lắm.
Đúng
lúc ấy ông Phan Ngô mở trường Tân Phương có tới lớp Đệ Nhị (lớp 11 bây
giờ – thời đó trường tư chưa trường nào có lớp Đệ Nhất, học xong lớp Đệ
Nhị, đậu xong Tú tài I được quyền xin vào Đệ Nhất trường công, bắt buộc
trường công phải nhận, thời ông Diệm là như thế, rất ưu tiên cho học
sinh).
Ông
Phan Ngô là hiệu trưởng trường Tân Thịnh ở đường Đinh Công Tráng, Tân
Định. Người em con chú con bác với ông là ông Phan Thuyết làm giám đốc.
Trường dạy giỏi, nổi tiếng nên rất đông học sinh. Nhưng không hiểu hai
anh em có chuyện xích mích gì đó nên bán trường, ông Phan Thuyết về mở
trường Đạt Đức ở Phú Nhuận, còn ông Phan Ngô mở trường Tân Phương ở Gò
Vấp. Ông cho người phát quảng cáo, mời học sinh thi cũng gọi là học bổng
vào lớp Đệ Nhị nhưng khác với học bổng của Bộ Quốc gia Giáo dục là lấy 3
người, người hạng nhất và hạng nhì được miễn học phí, người hạng ba
được giảm 50%, còn những người khác thì được cứu xét, nếu nghèo sẽ được
giảm. (“Học bổng” của nhà nước Việt Nam hiện nay cũng vậy, chỉ được miễn
hay giảm học phí chứ không có tiền. Sinh viên học giỏi mà nghèo thì có
thể vay, tối đa mỗi tam cá nguyệt được 400 ngàn đồng tức khoảng 20 đô-la
Mỹ, một năm được 1.6 triệu, tức 80 đô-la, sau khi tốt nghiệp, đi làm sẽ
phải trả lại).
Học sinh thi khá đông. Tôi lại đậu hạng nhì nên được miễn học phí.
Vào học lớp Đệ Nhị trường Tân Phương, tôi quen với hắn rồi dần dần hai đứa trở thành thân thiết với nhau.
Tôi
chưa từng thấy một người bạn nào nghèo như vậy. Ngày nào đi học hắn
cũng mặc một bộ đồ duy nhất: chiếc áo sơ mi cũ màu cháo lòng có hai
miếng vá, một miếng ở lưng, một miếng ở vai; chiếc quần ka ki cũng cũ,
vá một miếng lớn ở mông. Có lẽ hắn tự vá lấy bằng chỉ đen, đường chỉ
vụng về trông thô kệch chẳng ra sao cả. Chân hắn đi đôi dép Nhật mòn
vẹt, sứt mẻ, một quai màu xanh, một quai màu đỏ, cột bằng dây kẽm. Có
lần tôi hỏi sao hai quai dép lại bên xanh bên đỏ? Hắn cười, hơi mắc cỡ:
“Tại mình nhặt được trong thùng rác ấy mà. Nó bị đứt, họ vứt đi, mình
kiếm được hai cái quai cột vô đi tạm chứ chẳng lẽ đi học lại đi chân
không”.
Hắn
nghèo, cả lớp ai cũng biết nhưng ai cũng thông cảm, chẳng ai chê cười.
Nhất là các chị, nhiều khi giấm giúi cho hắn tiền uống nước. Ngày tết,
trường tổ chức cắm trại, thi đấu bóng chuyền và văn nghệ ở trong sân,
mỗi lớp có một cái quầy nho nhỏ cung cấp bánh mì, kẹo bánh và nước ngọt
cho lớp của mình. Mỗi bạn trong lớp đóng mỗi người 10 đồng, hắn không có
tiền, định không tham dự, các chị bàn nhau không bắt hắn đóng.
Cuối
năm ấy, lớp chúng tôi có 51 người, thi đậu ngay trong khóa 1 là 13
người, trong đó có tôi và hắn. Tỉ lệ như vậy là khá cao, bởi vì thi tú
tài thời đó rất khó, trường tư giỏi lắm cũng chỉ đậu khoảng 10% là cùng,
đằng này đậu tới hơn 25%. Thầy Phan Ngô mừng lắm, thầy nói: “Trường Tân
Phương là nhứt, không khác gì trường Tân Thịnh ngày trước”.
Sau
khi đậu xong Tú tài phần I, các bạn người Nam thì đa số nộp đơn vào học
lớp Đệ Nhất (lớp 12) trường Petrus Ký, còn tôi và hắn là người Bắc nên
nộp đơn vào trường Chu Văn An. Tôi từ trường công lại trở lại trường
công, “nhảy” được hai năm. Còn hắn, có sự tiến bộ: ông trùm nhà thờ Ngã
năm Bình Hòa cho hắn mượn một chiếc xe đạp cũ. Hội Phụ huynh học sinh
Chu Văn An cứu xét, thấy hắn nghèo, cho hai kỳ học bổng, mỗi kỳ 500 đồng
và một bộ quần áo may sẵn, hơi ngắn.
Cuối
năm ấy, đậu xong Tú tài phần II, tôi thi vào Đại học Sư Phạm còn hắn
thì thi vào trường Kỹ sư Phú Thọ nhưng rớt. “Cậu ngốc lắm, giá thi Sư
Phạm với tớ có lẽ đã đậu, thi Kỹ sư Phú Thọ khó muốn chết, tớ không dám
nghĩ đến”. “Tại tớ thi ngành Điện nên mới rớt chứ giá thi Công chánh hay
Công nghệ thì đỡ hơn”.
Hắn
rớt, đáng lẽ bị kêu đi sĩ quan Thủ Đức nhưng có người anh cũng đã ở
trong quân đội nên được hoãn. “Tớ phải về Cái Sắn làm giấy tờ nộp hồ sơ
hoãn dịch cậu ạ”. “Hoãn thì được rồi nhưng làm sao có tiền đi xe?”. “Cha
có cho. Cha dặn làm giấy tờ xong, nhớ lên xem người ta có cho thi vào
ngành nào thì thi chứ không lại lỡ mất một năm học”.
Hôm
lên, hắn đến nhà tôi chơi và hỏi những ngày hắn về Cái Sắn, ở Sài Gòn
họ có cho thi gì không. Tôi nói Tổng nha Cảnh sát ra thông cáo cho thi
lấy 50 người vào học khóa Biên tập viên cảnh sát, học bổng mỗi tháng
cũng 1,500 đồng giống như Đại học Sư phạm và Quốc gia Hành chánh. “Biên
tập viên cảnh sát là làm gì?”. “Tớ không rõ, họ nói cũng học 3 năm, ra
làm phó quận cảnh sát”. “Được đấy, có lẽ tớ sẽ nộp đơn thi Biên tập viên
cảnh sát”. Thời chúng tôi, con nhà nghèo, thi vào ngành nào thì phải
nhắm có học bổng chứ nếu học những trường không có học bổng như Y khoa,
Dược khoa, Luật, Văn khoa, Khoa học v.v..., tuy không phải thi tuyển
nhưng không có tiền ăn học suốt bao nhiêu năm.
Giữa
lúc hắn đang lo làm đơn thi Biên tập viên cảnh sát thì có tin Bộ Quốc
gia Giáo dục ra thông cáo, Cơ quan Văn hóa Liên Hiệp Quốc UNESCO cho hai
học bổng, một thi tiếng Anh, du học tại Mỹ, một thi tiếng Pháp, du học
tại Pháp hay Thuỵ Sĩ gì đó, tất cả mọi khoản đều do Liên Hiệp Quốc đài
thọ, học tiến sĩ kinh tế, sau này sẽ ra làm cho Liên Hiệp Quốc, giúp đỡ
các nước nghèo. “Cậu đã biết tin đó chưa?”. “Chưa, tớ không biết gì hết,
nhà thờ đâu có radio mà nghe. Cậu có nộp đơn không?”. “Không, Tú tài II
tớ đậu Bình Thứ chứ đâu phải hạng Bình như cậu. Họ bắt phải từ hạng
Bình trở lên mới được thi”.
Thời chúng tôi, thi tú tài I hay tú tài II, kết quả thi đậu có 5 hạng gọi theo tiếng Pháp: đậu thường gọi là hạng Thứ (Passable); trên Thứ là Bình Thứ (Assez Bien); trên Bình Thứ là Bình (Bien); trên Bình là Ưu (Honorable); rồi đến Tối Ưu (Très Honorable)
là hết mức, môn nào cũng phải đạt tối đa khoảng 20 điểm. Hắn đậu Bình,
cao hơn tôi một bậc. “Nộp thì nộp vậy thôi chứ cả Anh văn lẫn Pháp văn
mới lấy có hai người, khó lắm, chắc tớ không đậu được đâu”. “Biết đâu
đấy, cứ nộp đơn đi, may mà giờ vinh quang đã điểm thì bọn cắc ké nghèo
mạt rệp như tụi mình cũng ngon lành ra phết”. “Vậy tớ nộp đơn cả bên
UNESCO lẫn bên Biên tập viên cho chắc ăn”.
Hắn
nộp đơn xong, khoảng hai tháng sau thì dự cuộc thi của UNESCO. Hắn kể
rằng, đợt thứ nhất, hơn 200 người cả Anh văn lẫn Pháp văn, thi viết,
loại bớt còn 50 người. Đợt thứ nhì, 50 người lại loại lần nữa, còn lại
10 người trong đó có hắn. Rồi 5 người trong nhóm Anh văn bọn hắn vào
“sát hạch” tại tòa đại sứ Mỹ, còn 5 người nhóm Pháp văn thì sát hạch tại
tòa đại sứ Pháp hay Thuỵ Sĩ, hắn không để ý.
Hắn
kể, giám khảo nhóm Anh văn của hắn gồm ba giáo sư, một ông người Mỹ,
một ông người Canada, một ông người Úc hay Tân Tây Lan gì đó hắn không
biết rõ, tất cả đều nói tiếng Anh. Họ thay đổi nhau quay hắn về tình
hình kinh tế các nước trên thế giới, về vai trò của một nhà kinh tế học
đối với các nước nghèo như ở châu Phi chẳng hạn. Cuối cùng, vị giáo sư
người Úc hay Tân Tây Lan hỏi hắn quê ở đâu, cha mẹ làm nghề gì, từ nhỏ
tới lớn sống như thế nào..., hắn nói thật rằng quê hắn ở Nam Định, di cư
vào Nam năm 1954, ở trại định cư Cái Sắn thuộc tỉnh Long Xuyên, bố mẹ
hắn rất nghèo, làm nghề trồng cói và dệt chiếu ở Cái Sắn, còn hắn thì
kéo chuông và hầu hạ trong Nhà thờ Bình Hòa để có chỗ ăn học. Tất cả ba
vị giám khảo đều trợn tròn mắt, không ngờ một học sinh được vào chung
kết của một cuộc thi quan trọng như vậy mà gia đình lại nghèo đến thế.
“Dám
cậu thắng mấy người kia nhờ cái nghèo của cậu lắm ạ! Người Tây phương
họ có cái nhìn khác lắm, sẵn sàng ưu tiên cho người nghèo nếu thấy thực
sự đó là người giỏi chứ không khinh bỉ người nghèo như bên Việt Nam
mình”.
“Tớ
cũng hy vọng như vậy. Trông nét mặt ba vị giám khảo thấy họ có vẻ có
cảm tình với tớ lắm. Nhưng thôi, kệ, muốn đến đâu thì đến. Tớ cam đoan
với cậu thi Biên tập viên cảnh sát tớ đậu là cái chắc. Làm phó quận
trưởng cảnh sát cũng bảnh ra phết!”.
Trong
khi tâm sự, hắn kể với tôi rằng bữa đi mua giấy tờ lập hồ sơ thi du
học, hắn mua ở tiệm sách Thanh Trúc gần Ngã tư Phú Nhuận. Cô con gái bà
chủ cỡ chừng 15 – 16 tuổi, xinh lắm và rất tốt bụng. Thấy hắn vét túi mà
vẫn không đủ tiền trả, cô ta cười rồi cho luôn, không tính một đồng nào
cả.
“Cô bé cỡ 15 – 16 tuổi, vậy là cô em. Cô chị lớn hơn, khoảng 17 – 18 tuổi, mặt tròn, cũng đẹp nhưng không xinh bằng cô em”.
“Ủa, thế cậu cũng biết tiệm đó?”.
“Biết chứ, tớ là dân Phú Nhuận mà, vẫn mua sách ở tiệm đó”.
“Biết chứ, tớ là dân Phú Nhuận mà, vẫn mua sách ở tiệm đó”.
Tôi
kể cho hắn nghe bà mẹ còn tốt hơn nữa. Hồi tôi được phần thưởng cuối
năm ở trường Tân Phương, trong số các cuốn sách lãnh thưởng có cuốn Triết Học Nhập Môn của
tác giả gì tôi quên mất tên. Cuốn sách đó nghiên cứu về triết học nói
chung chứ không phải sách lớp Đệ Nhất dạy về triết học để đi thi tú tài
II. Tôi đem đến tiệm Thanh Trúc nhờ bà chủ đổi cho cuốn Luận Lý Học của
tác giả Trần Bích Lan tức nhà thơ Nguyên Sa, giáo sư triết trường Chu
Văn An. Bà coi qua cuốn sách của tôi rồi cười: “Sách người ta tặng cho
các trường để phát phần thưởng thường là sách khó bán nên họ mới tặng.
Tiệm tôi không bán loại này. Nhưng thôi, cậu được phần thưởng như vậy là
quý, muốn đổi thì tôi cũng đổi để cậu may mắn, năm tới thi đậu. Một vài
cuốn sách chẳng đáng bao nhiêu...”. Cuốn Luận Lý Học của giáo sư Trần Bích Lan đắt hơn cuốn Triết Học Nhập Môn một chút nhưng bà chủ tiệm cũng cho luôn, không bắt trả tiền chênh lệch.
Tôi kết luận rằng bà mẹ tốt bụng như thế nên các cô con gái cũng tốt là một chuyện thường.
Hắn
thở dài, nét mặt hơi buồn: “Nhà họ giàu, tiệm sách có tới mấy tầng lầu ở
ngoài mặt đường, còn mình thì nghèo rớt mồng tơi không đáng xách dép
cho họ. Tớ nói thật, nếu tớ được học bổng đi du học bên Mỹ kỳ này, đậu
xong tiến sĩ tớ sẽ trở về, quỳ xuống dưới chân cô ấy, nói với cô ấy rằng
nhờ cô cho giấy tờ lập hồ sơ nên tôi mới được du học, không bao giờ tôi
dám quên ơn cô...”.
Tôi
bật cười: “Cậu ngốc thấy mẹ, nếu đậu thì đến báo tin từ trước khi đi
cho người ta còn chờ đợi chứ đậu xong tiến sĩ, hàng chục năm trời, họ
lấy chồng mất tiêu rồi thì lúc ấy có ngồi mà khóc!”.
“Ừ há, mình cũng ngu thật. Nhưng biết họ có đợi hay không?”.
“Tại
sao lại không? Vấn đề là cậu có thắng được mấy người kia hay không chứ
nhà giàu thì họ khôn lắm, họ dư biết giá trị của một thằng học sinh
nghèo được học bổng du học bên Mỹ”. Và tôi nói thêm: “Ngoài ra, sang đấy
ăn ở ra sao, học hành thế nào cậu luôn luôn viết thư về cho em chứ đâu
phải như Kinh Kha sang Tần, một đi là không trở lại”. “Ờ há, vậy mà tớ
không nghĩ ra, tớ phải ghi địa chỉ tiệm sách nhà em mới được”.
Thế
rồi hắn đậu thật, hơn 200 người, lấy có 2 người, khó chứ không phải dễ.
Tội nghiệp, trước khi đi hắn vẫn còn nghèo bởi vì sang bên ấy, vào học
trường nào rồi người ta mới trả lại tiền vé máy bay và bắt đầu cho lãnh
học bổng chứ không phải họ đưa trước. Mọi thứ chi phí như mua sắm va-li,
giày dép, quần áo mặc trong mùa lạnh, kể cả tiền vé máy bay v.v... đều
là của Cha cho. Cha còn nói hôm hắn đi, Cha bận không đưa tiễn được
nhưng sẽ cho tài xế chở hắn ra phi trường.
“Rồi ông cụ bà cụ cậu ở dưới Cái Sắn có lên không?”.
Hắn lắc đầu, vẻ mặt buồn buồn:
“Không, gia đình tớ nghèo lắm, không có bà con anh em gì ở trên này. Bố mẹ tớ nói lên đây vừa tốn tiền lại vừa làm phiền Cha, không có chỗ ở chẳng lẽ lại ở nhờ Cha trong nhà thờ”.
“Không, gia đình tớ nghèo lắm, không có bà con anh em gì ở trên này. Bố mẹ tớ nói lên đây vừa tốn tiền lại vừa làm phiền Cha, không có chỗ ở chẳng lẽ lại ở nhờ Cha trong nhà thờ”.
Tôi
tưởng tượng ra cảnh hôm hắn đi, chắc chỉ có mình tôi và người tài xế
của Cha đưa hắn ra phi trường. Nhưng ra đến đấy người tài xế sẽ quay trở
lại chứ đâu có tiễn làm gì, chung quy chỉ có mình tôi mà thôi. “Cậu đã
đến từ biệt cô bé chưa?”. “Có, tớ có đến nhưng cô ấy mắc đi học, chỉ gặp
bà mẹ. Tớ kể cho bà ấy nghe chuyện cô bé cho giấy tờ làm đơn, nhờ đó tớ
mới được du học, tớ đến chào từ biệt và gửi lời nhờ bà cám ơn cô bé
giùm”. “Bà ấy có nói gì không?”. “Có, bà ấy xuýt xoa, thế ạ, quý hóa quá
nhỉ, tôi không biết gì hết chứ nếu biết tôi đã mời cậu đến nhà dùng bữa
cơm thân mật. Bao giờ cậu đi? – Dạ, thưa sáng mai. – Sáng mai, sớm vậy
sao? Vậy là không kịp rồi, cậu không đến đây từ trước. –
Bà
ấy tiếc lắm. Tớ cám ơn bà ấy rồi đi...”. “Đó, cậu thấy chưa, tớ đã nói
nhà giàu, nhất là một tiệm sách quen với chữ nghĩa, họ không dại gì mà
không biết giá trị của con người”, và tôi giục: “Cậu đến nữa đi, phải
gặp cô bé bằng được và dặn cô ấy chờ đợi, học xong cậu sẽ trở về”. Hắn
lắc đầu: “Không dám đâu, đến sợ lại gặp bà ấy nữa tớ mắc cỡ lắm. Dù sao
cô ấy cũng hãy còn nhỏ...”. “Trời đất ơi, 15-16 tuổi mà nhỏ cái gì! Sang
đấy cậu phải học cử nhân, cao học, tiến sĩ, ít nhất cũng 8 năm nữa. Lúc
ấy cậu khoảng 28, cô bé 24, chả nhỏ một tí nào cả”. Hắn khẽ thở dài:
“Nói thật với cậu, từ bé tới lớn tớ khổ sở quá nên không dám nghĩ tới
chuyện cao xa. Trước khi ra đi, tớ chỉ mong được nhìn thấy cô ấy một
lần, được nghe thấy cô ấy nói một tiếng là sung sướng lắm rồi. Sang đấy
tớ sẽ cố gắng học hành để đền đáp ơn nghĩa cô ấy...”.
Thật
kỳ cục, có đáng gì đâu mấy tờ sơ yếu lý lịch, mấy tờ mẫu đơn tiếng Việt
phải dịch sang tiếng Anh để nộp cho cơ quan UNESCO mà tên bạn tôi lại
đặt nặng vấn đề đến thế? Nếu cô bé không xinh xắn, tính tình không vui
vẻ và không có lòng thương người thì hắn có mê cô ta đến mức đó hay
không? Tưởng tượng tới cảnh hắn lên máy bay chẳng có ai đưa tiễn, tôi
nghĩ ra cách là ngay buổi chiều hôm đó đến tiệm sách kể hết mọi chuyện
với bà mẹ. Có cả cô bé cũng có ở đấy. Nghe tôi kể, cô chỉ cúi mặt mỉm
cười, hai gò má ửng hồng còn bà mẹ thì rất chú ý.
Cuối cùng, bà cười dễ dãi: “Hồi sáng cậu ấy có đến đây, tôi có biết mọi chuyện. Ý cậu là muốn nhờ em Trúc đi tiễn cậu ấy giùm phải không?”.
“Vâng ạ”.
“Mấy giờ thì cậu ấy lên máy bay?”.
“Dạ thưa 11 giờ 30, nhưng phải đến sớm ít nhất 2 tiếng đồng hồ để nó còn vào làm thủ tục”.
“Có, tôi biết. Sáng mai Chủ nhật em Trúc đi được. Vậy khoảng 8 giờ 30 cậu đến đây đi cả với em cho vui. Chắc có em Thanh cũng đi nữa”.
Tôi đoán Thanh là tên người con gái lớn của bà.
“Dạ, vâng ạ”.
Cô
bé vẫn cúi mặt cười, tay cầm cây bút Bic không mở nắp vẽ vẽ bâng quơ
trên mặt tủ kính quầy hàng cho đỡ mắc cỡ, chắc cô cũng quên không nhớ
mặt hắn.
Sáng
hôm sau, tôi đến. Hai cô con gái mặc juýp theo kiểu đơn giản thời đó,
cô lớn juýp trắng, cô bé juýp hồng nhưng cũng rất đẹp. Nhất là cô chị,
cô có thoa chút phấn hồng nên lại càng đẹp, tôi nghe đâu đây thoang
thoảng mùi thơm của phấn son hay của hương trinh nữ? Ôi chao, đời đẹp
quá, tôi, một thằng sinh viên bắt đầu học năm thứ nhất ĐHSP, nhà nghèo,
mẹ làm thợ dệt nhưng đứng bên cô, ngửi mùi hương ngan ngát đó tôi vẫn
thấy đời đẹp như thường. Chắc cô cũng có cảm tình với tôi, thấy trong
lúc đợi xe taxi, cô đứng sát bên cạnh tôi. Bà mẹ tiễn ra tận vỉa hè. Bà
đưa tiền cho cô lớn: “Đây, tiền đây, nhớ trả tiền cho anh, đừng để anh
trả nghe con!”. Cô không cầm, giọng con gái Bắc ngọt như mía lùi: “Con
có rồi mẹ!”.
Chúng
tôi đến. Hắn đang đứng một mình bên cạnh chiếc va-li hơi cũ, có lẽ của
Cha cho mượn và một chiếc túi xách để trên mặt chiếc va-li đó. Thấy
chúng tôi tới, hắn cứ ngớ ra coi bộ hết sức ngạc nhiên. Tôi cười, giới
thiệu: “Đây là cô Thanh, chị của cô Trúc. Còn đây là cô Trúc, người bạn
vẫn nhớ ơn đó. Các cô thân hành ra đây tiễn bạn...”. Hắn không ngờ mình
được hân hạnh đó nên lúng túng như gà mắc tóc, mỉm cười khẽ gật đầu
chào. Các cô chào lại. Cô chị nói: “Chúng em đến tiễn anh, chúc anh lên
đường mạnh giỏi. Thỉnh thoảng anh nhớ viết thư về cho Trúc”. “Vâng, cám
ơn các cô, thế nào tôi cũng phải viết”. Tôi cười: “Được viết thư cho
người đẹp sướng thấy bố rồi lại còn phải viết với không phải viết. Sao
nào, nếu học xong tiến sĩ kinh tế, có trở lại thăm cô Trúc không nào?”.
Hắn cười, mặt đỏ bừng, bây giờ tôi mới thấy hắn nói được một câu có thể
coi là thông minh: “Có chứ, đó là mơ ước lớn nhất trong đời mình, nếu
hai cụ nhà cho phép và cô Trúc sẵn sàng chờ đợi”. Cô chị hỏi: “Học tiến
sĩ thì mất chừng bao lâu hả anh?”.
Hắn
nói: “Khoảng chừng 8 năm, sớm nhất cũng phải 6 năm. Bên Mỹ nếu cố gắng
vẫn có cách học vượt thời gian như vậy. Bên mình thường thường là phải
10 năm...”. Cô chị nói: “Lúc ấy Trúc mới 22 hay 24 tuổi, còn sớm chán”.
Tôi cười, nói đùa: “Sao, ‘cô bé đẹp’, có đợi được không thì cho biết ý
kiến?”. Cô bé chỉ cúi mặt cười, không nói gì cả. Tôi hỏi gặng quá bắt
buộc cô phải trả lời: “Dạ được”. “Được thì ngoéo tay đi, hắn là dân Công
giáo, đã nói là sẽ giữ lời, có tôi làm chứng!”. Cô chị cười: “Em cũng
làm chứng luôn”. Mọi người cùng cười, hắn đã bạo dạn nên đưa tay ra
ngoéo tay cô bé khiến cô đỏ mặt nhưng cũng ngoéo lại. Trời đất ơi, phải
chi tôi được ngoéo tay cô chị nữa thì đỡ quá! Nhưng nhà tôi nghèo, mẹ
tôi làm thợ dệt, tôi 20 tuổi, còn cô thì khoảng 18 tuổi, kém tôi 2 tuổi,
làm sao tôi có điều kiện lấy vợ trong lúc còn đang đi học mặc dầu cô
cũng có vẻ quý mến tôi, luôn luôn đứng sát cạnh tôi.
Cuộc tiễn đưa chỉ có thế. Ba năm sau, tôi tốt nghiệp, đi dạy. Thời đó chúng tôi học Đại Học Sư Phạm theo régime 3 năm, các ban khoa học đều phải học bằng tiếng Pháp, thi cử cũng bằng tiếng Pháp. Sau khóa của tôi thì được đổi sang régime 4
năm và đã được chuyển ngữ, học bằng tiếng Việt. Ngoài ra, thời đó các
trường trung học đệ nhị cấp dạy tới lớp 12 rất ít, ở các tỉnh lớn mới
có, nên tôi đậu hạng 5 mà phải đi xa, cách Sài Gòn gần 300 cây số, vài
tháng lễ, tết mới về nhà một lần.
Có
lẽ cũng đến 5-6 năm, một lần tôi về, thấy trên mặt bàn có tấm thiệp của
hắn làm đám cưới với Thanh Trúc. Hai chị em nhà đó có cái lạ là cô em
tên Thanh Trúc, cô chị tên Trúc Thanh, ngược lại với nhau. Phong bì bên
ngoài đã có vẻ cũ, bám bụi. Tấm thiệp bên trong đề ngày cưới cách đấy đã
hơn hai tháng. “Thằng Khải nó về rồi hở mẹ?”. “Ừ, cậu ấy về, nghe đâu
đã đậu tiến sĩ, về làm đám cưới với cô con gái tiệm sách ở gần ngã tư
Phú Nhuận. Cả hai cô cậu ấy đến chơi, đem thiệp cưới đến mời anh nhưng
tôi nói anh dạy học ở mãi Bạc Liêu, chắc không về kịp. Cậu ấy nói cưới
xong sẽ đưa cô ấy sang Mỹ, bao giờ có dịp về sẽ gặp anh sau”. Thời chúng
tôi, người Việt ở bên Mỹ rất ít, nên họa hoằn lắm, hễ có ai về Việt Nam
cưới vợ thì sau khi cưới xong, đem đi rất dễ chứ không khó khăn, phải
làm đủ thứ giấy tờ bảo lãnh mới được đi như bây giờ. Cái thằng đó giỏi
thật, lúc nó ra đi thì tôi bắt đầu vào Sư Phạm, học xong 3 năm, đi dạy 6
năm, tức mới 9 năm mà nó đã đậu đạt, đi làm, để dành được tiền về cưới
vợ, giỏi thật. Tôi rất phục nó.
Thế
rồi tôi được đổi về trường Trung học Dĩ An, Biên Hòa, cách Thủ Đức
khoảng 10 cây số. Năm năm sau, 1975, miền Nam sụp đổ, các giáo viên –
giáo sư trung học bây giờ gọi là giáo viên – của 7 trường thuộc hai
huyện Dĩ An và Lái Thiêu chúng tôi phải đi cải tạo tại K4 Long Khánh.
Người cán bộ giáo dục về tiếp thu các trường thuộc hai huyện đó thấy
người ta cách ly các sĩ quan và hạ sĩ quan cảnh sát thuộc hai tỉnh Bình
Dương và Biên Hòa tại hai trường An Mỹ và Trịnh Hoài Đức, có du kích
gác, rồi sẽ đưa đi học tập cải tạo thì bắt các nam giáo viên chúng tôi
đi học tập cho... có tinh thần yêu nước vậy thôi. Hơn sáu tháng trời cải
tạo tại K4 Long Khánh, tôi suýt bỏ mạng tại đấy. Bởi vì cơ thể tôi ưa
lạnh chứ không ưa nóng. Cứ hễ trời nóng là tôi ho rũ rượi, ở nhà thường
uống Terpin-Codein, một thứ thuốc rất rẻ do Việt Nam chế tạo. Đi học
tập, trong trại không có thuốc men, lại ăn uống kham khổ nên tôi ho liên
tục, ban đêm không ngủ được, thân hình gầy xác như con cá mắm.
Sáu
tháng sau, các giáo viên được thả về. Sài Gòn buồn thê thảm và nghèo
không thể tưởng tượng nổi. Mẹ và em gái tôi nói chuyện người ta đánh tư
sản mại bản (nghĩa là tư sản mất gốc), các tiệm lớn ở Phú Nhuận bị tịch
thu nhà cửa, hàng hóa, gia đình bị đuổi đi kinh tế mới, tiếng khóc như
di. Còn ở Chợ Lớn, các tiệm người Tàu sợ quá, ném những cây vải còn
nguyên cả xấp và các đồ đạc xuống đường, kệ ai muốn nhặt thì nhặt nhưng
chẳng ai dám nhặt. Em tôi kể thêm: “May hồi trước anh Khải về làm đám
cưới với cô con gái thứ hai tiệm sách Thanh Trúc rồi đưa cô ấy sang Mỹ
chứ không thì bây giờ bị kẹt, tiệm đó bị đánh, muốn cưới cũng chẳng
được”. Tôi ngạc nhiên:
“Sao,
tiệm sách Thanh Trúc cũng bị đánh? Người ta bán sách chứ có làm gì đâu
mà đánh?”. “Có, cả nhà may Bảo Toàn cũng bị đánh, tiệm bị tịch thu, nghe
đâu người ta đuổi ông bà ấy lên cái gác xép nhỏ tí mãi tuốt tầng ba
trên lầu, bây giờ nghèo lắm”. Bảo Toàn là nhà may lớn nhất Phú Nhuận,
trước đây tôi thường may quần áo ở đấy nên cũng khá quen, ông bà Bảo
Toàn rất tốt, đối đãi với khách hàng rất niềm nở, ân cần. “Tiệm sách
Thanh Trúc còn một cô con gái lớn nữa tên là Thanh. Cô có nghe nói gì về
cô con gái lớn đó không?”. “Họ nói cô ấy lấy chồng, có bầu, nhà chồng
là một tiệm vàng cũng ở gần đấy. Hôm đánh tư sản, cả hai tiệm bị tịch
thâu, cô ấy buồn quá định tự tử nhưng người ta cứu được...”. Miệng tôi
đắng ngắt. Tôi nhớ đến hôm tiễn Khải ra phi trường, có cả cô chị cùng
đi, cô thường đứng sát bên cạnh tôi, cái mùi son phấn thơm thơm sang
trọng tôi không thể nào quên được.
Rồi
chúng tôi được Ty Giáo dục Sông Bé – Dĩ An trước thuộc Biên Hòa, bây
giờ thuộc tỉnh Sông Bé – cho đi học tập chính trị hè sau đó cho đi dạy
lại. Nghèo lắm. Lương tôi trước 63 ngàn, bây giờ chỉ còn 41 đồng, nghèo
không chịu nổi. Rồi tôi lấy vợ. Nhà tôi cũng dạy cùng trường nhưng môn
Anh văn, tốt nghiệp ĐHSP sau tôi 6 năm. Năm ấy tôi 32 tuổi.
Lương
của hai vợ chồng cộng lại chưa đầy 80 đồng. Nhà tôi dạy thêm Anh văn
buổi tối cho các học sinh gia đình sắp đi vượt biên hoặc được bảo lãnh.
Còn tôi, lúc rảnh tôi dịch truyện bán cho các nhà xuất bản ở trên Sài
Gòn, buổi tối giữ con cho vợ dạy học. Giáo viên chúng tôi anh nào cũng
gầy như cò bợ, quần áo ngày trước mặc vừa, bây giờ rộng thùng thình, áo
thì mặc được còn quần cài dây nịt dúm dím, mặc không được.
Một
hôm tôi nghĩ ra cách là khi về nhà ở Phú Nhuận, Sài Gòn thì đem hai
chiếc quần tây đến tiệm Bảo Toàn, leo lên cái gác xép tận trên lầu ba
theo cái cầu thang bên cạnh, nhờ ông Bảo Toàn sửa lại giùm. Ông đo người
tôi, xem kỹ hai chiếc quần tây rồi nói: “Sửa không được đâu. Bây giờ
phải tháo hết các đường chỉ ra, ủi cho thẳng rồi cắt lại như cắt quần
mới chứ sửa đâu có được”. Tôi hỏi giá cả, ông nói: “Ông là người quen,
tôi tính ông mỗi chiếc ba đồng gọi là có thôi”. Tôi mừng quá, cám ơn rối
rít. Ông nói: “Ông thấy tôi khổ như vậy đó. Ngày trước tiệm tôi lớn
nhất Phú Nhuận, ngay cả may đồ cho khách tôi cũng chỉ trông nom chứ đã
có thợ, đâu phải nhúng tay vào. Bây giờ thì đi may lại chiếc quần, kiếm
ba đồng bạc...”
.
“Hình như tiệm sách Thanh Trúc bên kia cũng bị đánh tư sản như bên tiệm
bác?”. “Có chứ, tiệm nào hơi có máu mặt một chút mà chả bị đánh. Họ bảo
bán sách là toàn các thứ phản động, đáng lẽ họ đuổi đi kinh tế mới
nhưng cô Thanh cô ấy tự tử, họ cho cả nhà ở tạm cái bếp ở phía đằng
sau”. Rồi ông nói thêm: “Nhà bà ấy cũng bị tịch thu hết, nghèo lắm. May
nhờ có vợ chồng cô Trúc ở bên Mỹ gửi quà về nên mới sống được”. Tưởng
tôi không biết gì về vợ chồng Khải, ông kể: “Nghe nói người chồng cô
Trúc đậu tiến sĩ kinh tế, trước làm trong cơ quan Liên Hiệp Quốc, sau
làm giáo sư dạy đại học tại California”. Rồi ông kết luận: “Con người ta
có số cả. Lúc lấy chồng, cô Trúc mới hăm mấy tuổi, gia đình lại khá giả
nhưng vẫn quyết định đi, bây giờ đang bảo lãnh cho cả nhà sang bên ấy
đấy. Tôi thấy họ đi được là đúng, gia đình bà ấy đối xử với ai cũng tốt
lắm”.
Con
người có số hay không tôi không biết, nhưng theo tôi nghĩ, câu chuyện
giữa cô bé 16 tuổi tên Trúc và anh chàng học sinh nghèo tên Khải hơi
giống chuyện cổ tích của một thời đã qua, nay khó có nữa.
Chuyện kể của Đoàn Dự
Chuyện kể của Đoàn Dự
No comments:
Post a Comment